Tổng quan: các thuốc làm tăng co cơ, góp phần vào mục đích dược lực học và huyết động học làm tăng co bóp cơ tim, có thể được phân loại vào thành 1 trong 3 cơ chế dược lý cơ bản. Về mục đích của tổng quan này, các thuốc làm tăng co cơ sẽ được chia thành 3 loại sau. 1, glycosides tim, 2, các chất chủ vận thụ thể, 3, các chất inodilator hoặc các chất ức chế phosphodiesterase co cơ
Lịch sử: mặc dù việc cấy ghép ở người đã được thực hiện từ năm 1960, nhưng việc cấy ghép khác loại trở nên phổ biến hơn sau khi có cyclosporin vào năm 1983. Trước thời gian này, liệu pháp ức chế miễn dịch để ngăn ngừa thải loại cơ quan gồm liều toàn thân corticosteroid và azathioprin (ra đời năm 1968). Globulin chống bạch cầu cũng được dùng vào đầu những năm 1980 nhưng hiện nay được đưa vào phương pháp miễn dịch đặc hiệu hơn với các các thuốc như là kháng thể đơn dòng như muromonab-CD3, ra đời năm 1986.
Lịch sử: năm 1940 "gamma globulin" (có nghĩa là IgE) được phân lập lần đầu tiên từ máu người bằng quá trình gọi là tách. Điều này thậm chí dẫn đến sử dụng globulin miễn dịch tiêm bắp (IMIGs) đối với miễn dịch thụ động để dự phòng và điều trị những bệnh do virus (ví dụ viêm gan A) và sau đó vào những năm 1950 để điều trị vô gamma globulin huyết. Globulin miễn dịch có thể tiêm tĩnh mạch (tức là IVIGs) được triển khai năm 1970 là một thuận tiện hơn, ít đau và là thay thế tác dụng nhanh cho IMIGs. Các quá trình tách ethanol ban đầu được dùng cho
Lịch sử: thuốc chống trầm cảm dị vòng là một nhóm đa dạng hóa học và dược lý. Rất nhiều chống trầm cảm loại này (ví dụ amoxapine, maprotilidin và trazodon) đang được quan tâm là các thuốc thế hệ 3 hoặc 4. Vào thời điểm hiện nay, nhóm phụ quan trọng nhất của các thuốc chống trầm cảm dị vòng là các chất ức chế tái hấp thu đặc hiệu serotonin (SSKIs) đã làm nên cuộc cách mạng trong điều trị trầm cảm. Fluoxetin, công bố năm 1987 là chất đầu tiên của SSKIs.
Lịch sử: sau khi thử nghiệm hơn 700 hợp chất, thuốc đầu tiên trên thị trường điều trị loét tiêu hóa tác dụng bằng cách đối kháng histamin ở tế bào thành vách, cimetidin, được phép bán ở thị trường vào 8/1977. Vào thời điểm đó, cimetidin đưa ra 1 tiếp cận mới trong điều trị bệnh loét tiêu hóa do acid. Trước đó liệu pháp chống loét bao gồm thuốc kháng acid kháng cholinergic và kháng muscarin. Hơn nữa, cimetidin hiệu quả hơn các thuốc này
Lịch sử: thuốc mê ether lần đầu tiên được bác sĩ nha khoa William T. G. Morton dùng tại Bệnh viện Đa khoa Masachusett vào năm 1846, sau đó, ether là thuốc mê đầu tiên được sử dụng rộng rãi. Nó có thể tồn tại ở dạng nguyên chất và dễ bảo quản. ở nhiệt độ phòng ether là một chất lỏng nhưng khi làm bay hơi và hít vào, thuốc gây mê mà không ức chế mạnh hô hấp và tuần hoàn. Một thuốc gây mê khác thường được sử dụng ở thời kỳ đầu là chloroform.
Tổng quan: chất kháng histamin được giới thiệu lần đầu tiên vào đầu những năm 1940. Ngày nay, chất đối kháng thụ thể H1 nằm trong số những thuốc được kê đơn rộng rãi nhất. Nǎm 1988, doanh số bán ra của các chất kháng histamin cả kê đơn và không kê đơn làtrên 500 triệu USD. Sau khi tính cả các chế phẩm tổng hợp kháng histamin làm giảm sung huyết, con số này là gần 2 tỷ USD. Các chất đối kháng thụ thể H1
Lịch sử: từ 40 năm qua, đã diễn ra một cuộc cách mạng về liệu pháp thuốc điều trị vô sinh. Sự tương tác phức tạp của hormon với tế bào sinh sản ở phụ nữ mục tiêu của hầu hết các biện pháp can thiệp bằng thuốc, mặc dù một số thuốc có ích trong điều trị chứng giảm tinh trùng ở nam giới. Các thuốc gây rụng trứng được sử dụng lần đầu vào những năm 1950, và tiếp theo là đứa trẻ đầu tiên thụ tinh trong ống nghiệm (IVF ra đời)
Lịch sử: các alkaloid cựa lúa mạch là những thuốc lâu đời được chiết xuất từ một loại nấm mọc trên lúa mạch đen và một số loại ngũ cốc khác. Tác dụng của cựa lúa mạch khi ăn trong thời kỳ mang thai đã được biết đến từ hơn 2000 năm nay, và cựa lúa mạch đã được dùng điều trị như một chất kích thích tử cung gần 400 năm trước. Các chế phẩm sử dụng trên lâm sàng bao gồm: ergonovin và methylergonovin
Lịch sử: Mặc dù Addison mô tả lần đầu tiên căn bệnh ngày nay mang tên ông vào năm 1855, những gần 100 năm sau người ta mới thừa nhận sự tồn tại của các minerala corticoid (corticoid chuyển hóa muối) và glucocorticoid (corticoid chuyển hóa đường). Cushing đã mô tả hội chứng cường vỏ thượng thận vào năm 1932. Cho đến năm 1942, người ta đã chiết xuất hoặc tổng hợp được hàng chục glucocorticoid mặc dù mãi đến năm 1950 người ta mới tìm ra aldosteron,
Lịch sử: thuốc lợi tiểu được chia thành thuốc lợi tiểu thiazid, thuốc lợi tiểu quai Henlé, thuốc lợi tiểu ống lượn xa hay lợi tiểu thải kali, thuốc lợi tiểu thẩm thấu, chất ức chế carbonic anhydrase. Trước khi công bố thiazid đầu tiên (chlorothiazid) năm 1957, chất ức chế cacbonic anhydrase và lợi tiểu thủy ngân là những thuốc lợi tiểu được dùng trên lâm sàng. Ngày nay, lợi tiểu thủy ngân không còn được sử dụng nữa do độc tính của thuốc và do đã có nhiều thuốc khác.
Lịch sử và đặc điểm phân biệt: các thuốc tránh thai đường uống (viên tránh thai) thường là progestin đơn thuần hoặc phối hợp với estrogen. Chúng là dạng thuốc tránh thai hay được sử dụng nhất ở Mỹ. Các thuốc phối hợp có tác dụng tránh thai tốt hơn các thuốc dùng đơn thuần. Các chế phẩm chỉ có Progestin, hoặc "viên mini" phải dùng hàng ngày để duy trì hiệu quả. Tất cả các chế phẩm tránh thai phối hợp đường uống đều được xem là có hiệu quả như nhau, với tỷ lệ có thai trong dân cư nói chung là 0-6%
Lịch sử: các chất ức chế catechol-O-mathyl transferase là những thuốc tương đối mới bổ sung cho những biện pháp điều trị bệnh Parkinson hiện có. Tolcapone được FDA cấp phép tháng 1/1998, và entacapon được cấp phép tháng 10/1999. Các chất ức chế COMT là một trong nhiều phương pháp được tập trung nghiên cứu để triển khai các chiến lược nhằm cải thiện việc điều trị bệnh Parkinson. Nhiều biến chứng do dùng levodopa dài ngày, như hiện tượng "mòn mỏi", được cải thiện khi bổ sung thêm các thuốc dopaminergic khác như chất ức chế COMT.
Lịch sử: cuộc cách mạng trong điều trị hỗ trợ cho các bệnh nhân ung thư xảy ra hồi những năm 1990. Một trong những độc tính thường thấy nhất ở bệnh nhân hóa trị liệu là ức chế tủy. Trước đây, tình trạng giảm bạch cầu trung tính khiến buộc phải giảm hoặc ngừng liệu pháp. Biến chứng nhiễm khuẩn do giảm bạch cầu trung tính, thường khiến bệnh nhân phải vào viện, rất hay gặp.
Lịch sử: Heparin được phát hiện vào năm 1916. Sau đó ít lâu, năm 1924, dicumarol được xác định là tác nhân gây chảy máu ở gia súc ăn cỏ ba lá ngọt bị thối, và sau đó, năm 1948, một dẫn xuất coumarin là warfarin được tổng hợp để làm chất diệt loài gặm nhấm.