Về chúng tôi

Mạng Yhocsuckhoe.com được điều hành bởi Dược phẩm Davinci Pháp. Chúng tôi luôn nỗ lực góp phần mang lại những giá trị thiết thực vì sức khỏe cộng đồng  Việt.

Các thuốc gây mê thông dụng

 Lịch sử: thuốc mê ether lần đầu tiên được bác sĩ nha khoa William T. G. Morton dùng tại Bệnh viện Đa khoa Masachusett vào năm 1846, sau đó, ether là thuốc mê đầu tiên được sử dụng rộng rãi. Nó có thể tồn tại ở dạng nguyên chất và dễ bảo quản. ở nhiệt độ phòng ether là một chất lỏng nhưng khi làm bay hơi và hít vào, thuốc gây mê mà không ức chế mạnh hô hấp và tuần hoàn. Một thuốc gây mê khác thường được sử dụng ở thời kỳ đầu là chloroform. Thuốc do James Simpson phát hiện ra năm 1847 được sử dụng ở Anh suốt 100 năm tiếp theo, mặc dù có mùi dễ chịu hơn ether, nhưng thuốc gây ức chế tim mạnh và gây độc cho gan và cuối cùng không còn được sử dụng. Oxid Nitơ trộn với khí oxy sử dụng có kết quả từ năm 1868 sau khi một phẫu thuật viên người Mỹ là Edmond Andrews tìm ra các đặc tính của thuốc.

Cyclopropan được dùng làm thuốc mê thông dụng trong nửa đầu những năm 1990. Tuy nhiên, nó là một chất dễ cháy và khả năng gây nổ trong phòng mổ là một trở ngại lớn. Kết quả là, Hội đồng nghiên cứu Anh đã triển khai halothan, một chất không dễ cháy. Halothan là một hydrocarbon halogen hóa, bắt đầu được sử dụng trên lâm sàng năm1956. Kể từ đó, nhiều thuốc mê khác được triển khai trong 40 năm qua hiện dùng halothan hoặc ether làm nguyên mẫu.

Mãi đến năm 1935 các thuốc mê tiêm tĩnh mạch mới được sử dụng trên lâm sàng, Khi đó, người ta phát hiện ra rằng thiopental có thể gây mê nhanh. Các barbiturat tiêm tĩnh mạch, như thiopental, và/hoặc opioid thường được sử dụng phối hợp với các thuốc gây mê đường hô hấp trong thực tế hiện nay.

Cơ chế tác dụng: Mê là tình trạng mất toàn bộ nhận thức và cần ngủ, mất cảm giác đau, ức chế các phản xạ nội tạng, và giãn cơ chưa rõ. Cơ chế gây ngủ của thuốc mê đường hô hấp. Người ta cho rằng những chất này ảnh hưởng sự trao đổi ion ở màng và tính hưng phấn thần kinh. Thuốc mê đường hô hấp làm mất các phản xạ hầu, thanh quản và gây giãn cơ. Các thuốc giảm đau/ gây ngủ tiêm tĩnh mạch tác dụng ngắn bao gồm nhóm thuốc không bartiturat (như propofol, ketamin, etomidat), nhóm bartiturat (như thiopental), và nhóm benzodiazepin (như midazolam). Những thuốc này thường được sử dụng ưu tiên để gây ức chế thần kinh trung ương và gây ngủ (nhân tạo) nhanh và êm dịu. Các benzodiazepin cũng có đặc tính gây giãn cơ, gây quên, và chống lo âu rất thuận lợi. Các opioid (ví dụ fentanyl) và oxid nitơ được sử dụng nhờ tính chất gây vô cảm trong các thủ thuật ngoại khoa. Các barbiturat, benzodiazepin và thuốc mê đường hô hấp ít hoặc không có tác dụng giảm đau. Các chất ức chế thần kinh cơ đặc hiệu như succinylcholin được sử dụng để ức chế phản xạ nội tạng trong gây mê.

Đặc điểm phân biệt: ở người lớn, isofluran được sử dụng phổ biến nhất trong gây mê vì thuốc gây mê và tỉnh nhanh hơn và ít tác dụng phụ hơn halothan hay enfluran. Các chất có độ hòa tan khí trong máu thấp (desfluran và sevofluran) cho phép bị thay đổi nhanh chóng mức độ mê trong quá trình phẫu thuật, Desfluran và sevofluran gây mê và tỉnh nhanh hơn, nhưng các nghiên cứu cho đến nay chưa cho thấy khả năng ra viện hoặc ra khỏi phòng hồi sức nhanh hơn. Isofluran và desfluran gây kích thích đường hô hấp mạnh hơn, khiến thuốc không được sử dụng cho trẻ em. Halothan và sevofluran được ưa chuộng để gây mê cho trẻ em vì chúng ít cay hơn, ít gây kích thích khí phế quản.

Nhược điểm của sevofluran bao gồm chuyển hóa thành fluorid vô cơ và giáng hóa trong hỗn hợp hydroxit natri và hydroxit calci thành những chất có khả năng gây độc Cần lưu ý rằng desfluran cần có thiết bị gây mê đặc hiệu. Chưa có những thử nghiệm được thiết kế đúng để chứng minh các ưu điểm đáng kể của sevofluran hoặc desfluran so với isofluran.

Những đặc điểm khác thường của thuốc mê đường tĩnh mạch ketamin bao gồm sự kích thích hô hấp tuần hoàn và không làm giảm phản xạ hầu thanh quản. Propofol tĩnh mạch có thời gian tác dụng ngắn, là một ưu thế đối với các phẫu thuật ngắn, phẫu thuật bệnh nhân ngoại trú, cũng như giảm đau tục cho ở bệnh nhân đặt nội khí quản trong hồi sức cấp cứu. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng sự phục hồi sau gây mê đã khi dùng thuốc tác dụng ngắn midazolam không nhanh hơn đáng kể so với benzodiazepin, là diazepam tác động kéo dài.

Tác dụng phụ: Halothan và oxid nitơ gây rối loạn chức năng gan mặc dù nguy cơ thực tế khá nhỏ. Enfluran giải phóng ra các ion fluor gây suy thận. Hiện nay, propofol là một chất cực kỳ thông dụng trong lâm sàng, tuy nhiên giá thành đáng kể của thuốc và các thông báo gần đây tình trạng nhiễm khuẩn của chế phẩm lipid là những trở ngại đáng kể. Tất cả thuốc mê đường hô hấp có thể gây ức chế hô hấp, suy yếu cơ tim, loạn nhịp tim, hạ huyết áp, buồn nôn và nôn sau mổ. Tăng thân nhiệt ác tính ít gặp nhưng là phản ứng phụ nặng của thuốc gây mê.

(Theo cimsi)

Liên hệ với chúng tôi

  • Số 4/9/259 phố Vọng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam.
  • (+84.4) 22 42 01 68 // 85 85 26 70 - Fax: (+84.4) 3650 1791
  • contact@davincipharma.com
Thời tiết hôm nay