Lịch sử: chất hạ lipid đầu tiên là cholestyramin, được cấp phép sử dụng năm 1964. Clofibrat và dextrothyroxin được công bố năm 1967, tiếp theo là colestipol và probucol vào năm 1977. Lovastatin là chất ức chế HMG-CoA reductase đầu tiên, được cấp phép sử dụng năm 1987. Sau đó, một số chất ức chế HMG-CoA reductase khác cũng được sử dụng. Nhóm thuốc chống tăng lipid máu này tỏ ra là liệu pháp điều trị hiệu quả nhất chứng tăng cholesterol máu tiên phát, mặc dù những thuốc này ít có hiệu quả điều trị chứng tăng triglycerid máu.
Lịch sử: các thuốc điều trị cao huyết áp có sớm nhất gồm nhiều thuốc hiện không còn dùng trong điều trị cao huyết áp trên lâm sàng: các alkaloid của cây rễ li (veatrum) và cây ba gạc (rauwolfia), thuốc lợi tiểu thủy ngân, và các thuốc phong bế hạch. Ngay cả hydralazin, được cho phép dùng vào năm 1952, hiện cũng ít được dùng làm một thuốc điều trị cao huyết áp.
Tổng quan: hiện nay, đã có nhiều thuốc điều trị bệnh gút cấp hoặc mạn tính, bao gồm colchicin, các thuốc chống viêm phi steroid (NSAID), sulfinpyrazon, allopurinol, probebecid, corticotropin (ACTH) và các glucocorticoid. Điều trị bệnh gút bao gồm 3 khía cạnh khác nhau của bệnh: ức chế phản ứng viêm (colchicin, glucocorticoid, ACTH và NSAID), giảm sản sinh acid uric (allopurinol), và tăng thanh thải acid uric (phenylbutazon, probenecid, sulfinpyrazon).
Tổng quan: các thuốc chống tăng nhãn áp (glaucoma) làm giảm áp lực nội nhãn bằng cách tăng lưu lượng và/hoặc giảm sản sinh thủy dịch. Những thuốc dùng trong điều trị glaucoma bao gồm chất ức chế acetylcholinesterase, chất chẹn beta-adrenalin, chất chủ vận adrenalin, chất ức chế carbonic anhydrase, glycerin, manitol và các chất giả phó giao cảm. Các chất ức chế acetylcholinesterase có thể phân thành 2 nhóm, những thuốc "có thể đảo ngược" và "không thể đảo ngược"
Lịch sử: từ khi phát hiện ra penicillin năm 1941, các công ty dược đã triển khai hàng chục loại kháng sinh. Tuy nhiên, chỉ trong vài năm qua, các thuốc chống nấm mới, hiệu quả cao mới được sản xuất. Nystatin và amphotericin B được đưa ra thị trường lần lượt vào các năm 1955 và 1957. Trong nhiều năm, amphotericin B vẫn là thuốc chống nấm hiệu quả nhất để điều trị nhiễm nấm toàn thân, mặc dù rõ ràng là thuốc có nhiều phản ứng có hại. Nystatin, một hợp chất có cấu trúc gần giống với amphotericin B, không được dùng toàn thân do có khả năng gây. Cả nystatin và amphotericin B đều không có tác dụng chống nấm ngoài da.
Lịch sử: lịch sử của các chất ức chế men chuyển angiotensin (ACE) bắt đầu năm 1954, khi tầm quan trọng của enzym này được thừa nhận lần đầu. Năm 1968, hợp chất đầu tiên có khả năng ức chế chuyển angiotensin I thành angiotensin II được tách chiết từ nọc rắn. Tuy nhiên chất ức chế ACE đầu tiên được sử dụng trên lâm sàng chưa bao giờ xuất hiện trên thị trường vì thuốc không có sinh khả dụng sau khi uống.
Lịch sử: hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) được thừa nhận lần đầu tiên năm 1983 và do virus gây suy giảm miễn dịch người (HIV) gây ra. Mặc dù nhiều virus khác cũng là retrovirus, thuật ngữ "tác nhân kháng retrovirus" mô tả các tác nhân dùng điều trị nhiễm HIV. Nhóm chất đầu tiên được phép dùng điều trị HIV là các chất ức chế phiên mã ngược nucleosid (NRTI). Từ năm 1995, hai nhóm kháng retrovirus mới được giới thiệu: các chất ức chế protease (PI) và chất ức chế phiên mã ngược phi nucleosid (NNRTI), số tác nhân kháng retrovirus hiện đã gấp hơn 3 lần
Lịch sử: kháng sinh đầu tiên của nhóm aminoglycosid là streptomycin được tách chiết năm 1944 và ngay sau đó người ta đã thấy hiệu quả của thuốc trong điều trị bệnh lao. Năm 1949, người ta tách được neomycin, tiếp theo là kanamycin năm 1957. Năm 1959, một aminoglycosid khác ít được biết tới là paronomycin được triển khai. Ngày nay, bốn aminoglycosid này ít được dùng do tính khả dụng của gentamycin (1963), tobramycin (1975) và amikacin (1976).
Tổng quan: các chất chẹn alpha toàn thân bao gồm doxazosin, phenoxybenzamin, phentolamin, prazosin, terazosin và tolazolin. Trên lâm sàng, doxazosin, terazosin và, trong một phạm vi hạn chế , parazosin được dùng làm thuốc uống điều trị cao huyết áp và phì đại tuyến tiền liệt. Phenoxybenzamin và tolazolin ít khi được sử dụng. Phentolamin được dùng để chẩn đoán u tế bào ưa crôm
Lịch sử: các tác nhân alkyl hóa có chứa một nhóm nhiều loại hợp chất khác nhau tạo thành liên kết alkyl với acid nucleic. Trong nhóm tác nhân alkyl hóa có thể xác định được một số phân nhóm. Phân nhóm lâu đời nhất là nitơ mù tạc (mustin hydroclorua) được triển khai từ khí mustin sulfur từng được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ I. Chất này gây bất sản mô bạch huyết. Sự biến đổi về mặt hóa học đã mang lại một nhóm thuốc chống ung thư mới ít độc hơn nhưng vẫn có hiệu quả.
Ghi chú: danh mục này không ghi hàm lượng, nồng độ, thể tích, khối lượng đóng gói, dạng đóng gói của từng thuốc được hiểu rằng bất kể hàm lượng, nồng độ, thể tích, khối lượng đóng gói, dạng đóng gói nào đều được bảo hiểm y tế thanh toán cho bệnh nhân.
Ghi chú: danh mục này không ghi hàm lượng, nồng độ, thể tích, khối lượng đóng gói, dạng đóng gói của từng thuốc được hiểu rằng bất kể hàm lượng, nồng độ, thể tích, khối lượng đóng gói, dạng đóng gói nào đều được bảo hiểm y tế thanh toán cho bệnh nhân.
Ghi chú: danh mục này không ghi hàm lượng, nồng độ, thể tích, khối lượng đóng gói, dạng đóng gói của từng thuốc được hiểu rằng bất kể hàm lượng, nồng độ, thể tích, khối lượng đóng gói, dạng đóng gói nào đều được bảo hiểm y tế thanh toán cho bệnh nhân.
Ghi chú: danh mục này không ghi hàm lượng, nồng độ, thể tích, khối lượng đóng gói, dạng đóng gói của từng thuốc được hiểu rằng bất kể hàm lượng, nồng độ, thể tích, khối lượng đóng gói, dạng đóng gói nào đều được bảo hiểm y tế thanh toán cho bệnh nhân.
Ghi chú: danh mục này không ghi hàm lượng, nồng độ, thể tích, khối lượng đóng gói, dạng đóng gói của từng thuốc được hiểu rằng bất kể hàm lượng, nồng độ, thể tích, khối lượng đóng gói, dạng đóng gói nào đều được bảo hiểm y tế thanh toán cho bệnh nhân.