Tên gốc:Clonidin
Biệt dược:CATAPRES
Nhóm thuốc và cơ chế:Clonidin là một thuốc chống cao huyết áp dùng đường uống và dán ngoài da. Thuốc cũng được dùng trong một số chứng bệnh khác bao gồm cai nghiện thuốc ngủ và cai nghiện nicotin, một số dạng đau đầu do mạch máu và ỉa chảy do đái đường. Clonidin tác dụng bằng cách kích thích thụ thể adrenalin trên các dây thần kinh trong não. Kích thích này thực sự làm giảm thông tin bắt nguồn ở hệ thần kinh trung ương (não) và lan truyền khắp cơ thể nhờ hệ thần kinh giao cảm. Kết quả là clonidin làm chậm nhịp tim và giảm huyết áp.
Kê đơn:có
Dạng dùng:viên nén 0,1mg, 0,2mg, 0,3mg. Cao dán trên da giải phóng 0,1mg, 0,2mg hoặc 0,3mg trong 24h.
Bảo quản:nên bảo quản viên nén và cao dán ở nhiệt độ phòng, 15-30oC.
Chỉ định:clonidin hay được kê đơn nhất để điều trị cao huyết áp. Thuốc cũng được dùng để xử trí các triệu chứng cai thuốc ngủ, cai nicotin, ỉa chảy do đái đường, bệnh thần kinh đái đường, bốc hỏa do mãn kinh, và là thuốc bổ trợ để xử trí đau do ung thư nặng.
Cách dùng:viên nén clonidin thường dùng 2 lần/ngày. Cao dán được dán ở vùng da không có lông ở cánh tay trên hoặc ở lưng 7 ngày/1 lần. Khi dùng miếng dán mới, nên dán ở một vùng da khác.
Tương tác thuốc:clonidin có thể làm tăng tác dụng giảm đau của nhiều thuốc giảm đau khác. Những thuốc này bao gồm thuốc giảm đau gây ngủ, các barbiturat, các thuốc giảm đau như alprazolam (XANAX) và clonazepam (KLONOPIN), và rượu ethylic. Thuốc chống trầm cảm ba vòng [như amitriptylin (ELAVIL), imipramin (TOFRANIL), desipramin (NORPRAMIN), clomipramin (ANAFRANIL)] có thể ức chế tác dụng hạ huyết áp của clonidin và làm huyết áp tăng.
Vì clonidin có thể làm giảm nhịp tim, cần thận trọng khi dùng cho người đang điều trị các thuốc làm giảm nhịp tim khác như chất chẹn bêta {ví dụ atenolol (TERNOMIN), metoprolol (LOPRESSOR), propranolol (INDERAL), digoxin (LANOXIN), diltiazem (CARDIZEM) hoặc verapamil (CALAN; COVERA HS). Nhịp tim bất thường có thể xảy ra khi phối hợp clonidin và verapamil. Nồng độ cyclosporin (SANDIMUNE; NEORAL) trong máu có thể tǎng khi bắt đầu dùng clonidin. Tương tác này có thể gây tổn thương thận. Các thuốc chống viêm phi steroid [như ibuprofen (MOTRIN, ADVIL), naproxen (NAPROSYN, ALEVE), nabumeton (RELAFEN)] có thể làm giảm tác dụng chống cao huyết áp của clonidin. Cocain, pseudophedrin, phenylephrin và phenylpropanolamin có thể đảo ngược hiệu quả hạ huyết áp của clonidin.
Đối với phụ nữ có thai:có rất ít thông tin về tác dụng của clonidin trên thai nhi khi dùng cho phụ nữ có thai. Clonidin đã được dùng trong thời gin có thai, nhưng hạn chế sử dụng trong 3 tháng đầu. Thầy thuốc có thể dùng thuốc nếu lợi ích tỏ ra lớn hơn những nguy cơ tiềm ẩn (và chưa rõ).
Đối với bà mẹ cho con bú: clonidin được bài tiết trong sữa mẹ. Mặc dù clonidin có trong máu trẻ bú sữa mẹ mà người mẹ đang dùng clonidin, chưa có báo cáo nào về hạ huyết áp ở trẻ còn bú. Tuy nhiên, vì số báo cáo còn rất hạn chế, phải thận trọng khi dùng clonidin ở bà mẹ cho con bú.
Tác dụng phụ:tác dụng phụ hay gặp nhất với clonidin là mệt mỏi, thờ ơ, đờ đẫn, táo bón và khô miệng. Đau đầu, chóng mặt, mệt mỏi và yếu nhược cũng thường xảy ra với clonidin. Phần lớn những người bị một trong những tác dụng phụ này thường thấy tác dụng phụ giảm khi dùngliệu pháp kéo dài hơn hoặc giảm liều (được sự cho phép của thầy thuốc). Phản ứng da bao gồm ban đỏ, ngứa và sạm da xảy ra với cao dán clonidin.
Đã có báo cáo về rối loạn chức năng tình dục bao gồm liệt dương, giảm ham muốn tình dục và rối loạn phóng tinh khi dùng liệu pháp clonidin. Những phản ứng này cũng xảy ra với nhiều thuốc điều trị cao huyết áp khác.
Huyết áp cao tái phát nặng có thể xảy ra sau khi ngừng dùng clonidin. Phản ứng này dễ xảy ra hơn nếu ngừng clonidin đột ngột (mà không giảm liều từ từ). Triệu chứng bao gồm tăng tiết nước bọt, căng thẳng, đau đầu, đánh trống ngực, kích động, lo âu, đổ mồ hôi, buồn nôn, đau cơ và đau bụng. Giảm dần liều clonidin qua nhiều ngày sẽ ngăn ngừa được hiện tượng này.
(Theo cimsi)