Lịch sử: các thuốc hô hấp gồm theophylin, chất chủ vận beta2-adrenalin và các thuốc chống tiết acetylcholin dạng xịt. Mặc dù mãi đến năm 1940 theophyllin mới được phép sử dụng toàn thân, song caffein, một xanthin khác có tác dụng giãn phế quản, đã được dùng trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, theophyllin là chất giãn phế quản mạnh hơn nhiều so với caffein. Nǎm 1947, isoproterenol, một chất chủ vận beta mạnh, được cấp phép sử dụng và trong 25 nǎm tiếp đó, hai thuốc này là những thuốc giãn phế quản chính được dùng trên lâm sàng.
Lịch sử và các đặc điểm phân biệt: các thuốc hỗ trợ nhu động làm tăng sức co bóp của cơ trơn đường tiêu hóa và thúc đẩy lưu thông các chất chứa trong đường tiêu hóa. Thuốc hỗ trợ nhu động được dùng để điều trị các rối loạn nhu động dạ dày ruột như bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD), chứng liệt nhẹ dạ dày do đái đường hoặc liệt ruột sau mổ, và, tuỳ theo từng thuốc, có thể dùng làm thuốc bổ trợ để đặt ống vào ruột non hoặc chụp X quang đường tiêu hóa.
Lịch sử: các chất ức chế glycoprotein (GP) IIb/IIIa tiểu cầu làm giảm mạnh kết tập tiểu cầu. Tiểu cầu có vai trò rất quan trọng trong các tai biến thiếu máu cục bộ, đặc biệt là trong hội chứng mạch vành cấp. Các chất ức chế GP IIb/IIIa đầu tiên là những kháng thể đơn dòng hiệu quả trong phòng ngừa huyết khối trên mô hình động vật, nhưng lại có khả năng tạo miễn dịch rất cao. Việc thay thế vùng murin hằng định bằng chuỗi của người đã hình thành một kháng thể
Lịch sử: các chất làm tăng thể tích huyết tương được sử dụng điều trị sốc tuần hoàn. Chúng phục hồi thể tích mạch máu, do đó ổn định huyết động và duy trì tưới máu cho mô. Hiện có 2 nhóm chất làm tăng thể tích là: các chất á tinh (crystalloid) và chất keo (colloid). Các chất á tinh, được sử dụng phổ biến nhất trên lâm sàng là nước muối sinh lý (NaCl 0,9%) hoặc các dung dịch Ringer lactat, mặc dù còn nhiều chất khác.
Lịch sử: Penicilin được tìm ra năm 1928 và được sử dụng trong lâm sàng lần đầu tiên vào năm 1941. Năm 1941, penicilin G là kháng sinh có hiệu quả cao, thậm chí chống được hầu hết các chủng Staphylococcus aureus. Tuy nhiên, đến năm 1947, phần lớn các các vi khuẩn phân lập được trong bệnh viện đều biểu hiện tính kháng penicilin. Trong một nỗ lực nhằm vào vấn đề này, các penicilin "bán tổng hợp" đã được triển khai
Lịch sử : thuốc giả phó giao cảm đầu tiên được chiết xuất từ calabar hay đậu thử thách. Eserine, thành phần hoạt chất, hồi đầu được sử dụng lần đầu tiên làm "chất độc thử thách" tại những bộ lạc Tây Phi trong các thử nghiệm ma thuật. Eserine, tên thông dụng trong y học hiện đại là physostigmin, được mang tới nước Anh năm 1840 và lần đầu tiên được sử dụng để điều trị bệnh tăng nhãn áp năm 1877.
Lịch sử: những tài liệu về cây thuốc phiện đã có từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên cùng với sự quen thuộc của người Sumary và người Ai Cập với các đặc tính làm giảm đau và trị tiêu chảy của nó. Cây thuốc phiện (papaver somniferum), chứa hơn 20 loại alkaloid khác nhau. Morphin được chiết xuất năm 1806 và sau đó là codein (thuốc gây mê) năm 1832. Trong một nỗ lực nhằm tạo ra loại thuốc giảm đau mạnh mà không gây nghiện, meperidin và methadon lần lượt được giới thiệu vào năm 1942 và năm 1947. Không may là cả hai chất này đều không đáp ứng được yêu cầu.
Lịch sử: gây chuyển dạ bằng thuốc thường được cân nhắc cho một số chứng bệnh của mẹ hoặc thai nhi. Các thuốc thúc đẻ làm tăng sức mạnh, thời gian và tần số co tử cung, do đó giúp cho chuyển dạ. Về mặt lịch sử, các alkaloid của lúa mạch đã được sử dụng để khởi đầu hoặc đẩy nhanh cuộc đẻ. Ergonovin được phép dùng làm thuốc thúc đẻ năm 1945, tiếp theo là methylergonovin năm 1946. Cả hai dạng ergonovine tiêm và uống hiện đều không còn được sản xuất. Vai trò của methylergonovin được giới hạn trong thời kỳ hậu sản. Oxytocin, được cấp phép năm 1962,
Lịch sử: MAOIs có nguồn gốc từ thuốc chống lao iproniazid có tác dụng kích thích tâm thần ở bệnh nhân điều trị lao. Iproniazid có tác dụng ức chế đáng kể oxid monoamin (MAO) được chỉ định chống trầm cảm vào năm 1952. Việc phát hiện thuốc iproniazid dẫn tới việc FDA cho phép dùng các thuốc ức chế MAO khác như phenelzin và isocarboxazid năm 1959 và tranylcypromin năm 1961. Selegilin, một thuốc ức chế MAO B được dùng điều trị bệnh Parkinson, được FDA cho phép vào tháng 6/1989.
Lịch sử: trong nỗ lực phát triển các thuốc giảm đau opiate ít có hoặc không có khả năng lạm dụng, các thuốc có cả tác dụng đối kháng và chủ vận opiate đã phát triển. Với sự ra đời pentazocine (1967), butorphanol (1978), nalbuphin (1979) và buprenorphin (1981), nhóm thuốc giảm đau đối kháng và chủ vận opiate đã ra đời. Thuốc đối kháng và chủ vận đầu tiên có mặt trên thị trường là nalorphin (1952) có mặt không đưọc lâu vì chúng gây rối loạn tâm thần với một tỉ lệ
Lịch sử: Erythromycin là kháng sinh đầu tiên thuộc nhóm macrolid được dùng rộng rãi nhất, bắt đầu sử dụng trên lâm sàng từ năm 1952. Cho tới những năm 1990, erythromycin và một macrolid dùng không thường xuyên là troleandomycin là 2 đại diện của nhóm này. Năm 1991, azithromycin và clarithromycin được tổng hợp và đưa ra thị trường, năm 1995 dirithromycin có mặt trên thị trường. Các thuốc mới xuất hiện này có tiến bộ rõ rệt so với erythromycin mặc dù giá đắt hơn. Roxithromycin là một macrolid còn đang được nghiên cứu.
Cơ sở: "Thuốc nhuận tràng", "thuốc chống táo bón", và "thuốc chống tiêu chảy" bao gồm các thuốc tác dụng lên đại tràng và một số thuốc tác dụng trên tiểu tràng. Thuốc chống táo bón cũng có thể quy vào nhóm "thuốc tẩy" hoặc "thuốc tẩy nhẹ". Thuốc tẩy là các thuốc giúp thúc đẩy nhanh quá trình loại bỏ phân chứa nước. Thuốc tẩy nhẹ có tác dụng tương tự thuốc tẩy nhưng ở mức nhẹ hơn. Như vậy, thuốc nhuận tràng có thể là thuốc tẩy hay thuốc tẩy nhẹ tùy theo dạng phân tống ra, tốc độ tác dụng của thuốc và liều dùng.
Lịch sử: trong nhiều thế kỷ, người Peru đã biết được tác dụng dược lý của lá cây erythroxylon coca, một loại cây bụi phát triển nhiều ở vùng núi Andes. Nhai hoặc ngậm loại lá này tăng cường cảm giác chịu đựng. Thân cây tần bì tiết ra một loại alkaloid hấp thu qua màng nhầy. Ngày nay loại alkaloid này được nhiều người biết đến vì nó là cocain. Alkaloid cocain tinh khiết được phân lập năm 1880
Tổng quan: các thuốc làm tăng co cơ, góp phần vào mục đích dược lực học và huyết động học làm tăng co bóp cơ tim, có thể được phân loại vào thành 1 trong 3 cơ chế dược lý cơ bản. Về mục đích của tổng quan này, các thuốc làm tăng co cơ sẽ được chia thành 3 loại sau. 1, glycosides tim, 2, các chất chủ vận thụ thể, 3, các chất inodilator hoặc các chất ức chế phosphodiesterase co cơ
Lịch sử: mặc dù việc cấy ghép ở người đã được thực hiện từ năm 1960, nhưng việc cấy ghép khác loại trở nên phổ biến hơn sau khi có cyclosporin vào năm 1983. Trước thời gian này, liệu pháp ức chế miễn dịch để ngăn ngừa thải loại cơ quan gồm liều toàn thân corticosteroid và azathioprin (ra đời năm 1968). Globulin chống bạch cầu cũng được dùng vào đầu những năm 1980 nhưng hiện nay được đưa vào phương pháp miễn dịch đặc hiệu hơn với các các thuốc như là kháng thể đơn dòng như muromonab-CD3, ra đời năm 1986.