Amantadin Acyclovir Famciclovir Amoxicillin Azithromycin Cefaclor Cefuroxim Cefadroxil
Astemizol Beclomethason dipropionat nasal inhaller/spray Betamethason dipropionat Cetirizin Cromolyn
Amitriptylin Alprazolam Bupropion Buspiron Clozapin Clonazepam Desipramin
Acetaminophen Allopurinol Aspirin Auranofin Aurothioglucose Codein Etanercept
Lịch sử: khoảng 40 vitamin và khoáng chất cần thiết cho con người. Vitamin có thể được định nghĩa là hợp chất hữu cơ được cung cấp với khối lượng nhỏ từ môi trường để giúp cho cuộc sống khỏe mạnh. Vitamin không được tổng hợp toàn bộ nhờ cơ thể hay được tổng hợp với khối lượng quá nhỏ để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng hằng ngày
Lịch sử: Imipramin là thuốc chống trầm cảm 3 vòng đầu tiên. Các thuốc chống trầm cảm 3 vòng có nguồn gốc hóa học từ nhân thơm 3 vòng chia thành 3 dạng: dibenzazepin (imipramin), dibenzocyclohepten (amitriptylin), hoặc dibenzoxepin (doxepin).
Lịch sử: dọa đẻ non (tử cung bắt đầu co trước tuần 37 của tuổi thai) xảy ra ở 15% số phụ nữ mang thai ở tây bán cầu. Điều trị bảo tồn bằng nghỉ ngơi tại giường, bù nước và an thần không phải luôn thành công, và đôi khi cần tới các tác nhân dược lý. Trước đây rượu etylic (ethanol) được sử dụng rộng rãi như là một thuốc sản khoa. Truyền ethanol để tạo nồng độ huyết thanh thấp hơn mức độc cho phép một chút, hay gây ra các phản ứng có hại do ethanol. Ethanol đi qua hàng rào rau thai,
Cơ sở: thuốc tuyến giáp có trên thị trường là các chế phẩm có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo. Levothyroxin và Liothyronin được tổng hợp từ các muối Na đồng phân L của hormon tuyến giáp thiết yếu Triiodothyronin (T3) và Thyroxin (T4). Các thuốc tuyến giáp tự nhiên như thyroid và thyroglobulin có nguồn gốc từ tuyến giáp động vật và có chứa T3 và T4 với số lượng khác nhau.
Lịch sử: Tetracyclin là nhóm kháng sinh cũ, có nguồn gốc từ Strptomyces aureofaciens. Thuốc đầu tiên của nhóm là chlortetracyclin được giới thiệu năm 1949, nhưng ngày nay ít sử dụng. Vì các tetracyclin ức chế vi khuẩn, rickettsia và chlamydia, nên chúng thật sự là những kháng sinh phổ rộng. Không may, tetracyclin là chất kìm khuẩn, và như nhiều thuốc chống nhiễm trùng khác, lạm dụng sẽ dẫn làm cho một số vi sinh vật kháng thuốc.
Lịch sử: việc sử dụng và nghiên cứu thuốc làm tan huyết khối để điều trị huyết khối và/hoặc các rối loạn huyết khối tắc mạch bắt đầu vào năm 1933 về tác dụng phân hủy fibrin của các chất phân lập từ cầu khuẩn tan huyết beta. Tuy nhiên do nguy cơ chảy máu và số liệu về hiệu quả không đầy đủ của thuốc thời gian đó, nên việc dùng thuốc làm tan huyết khối bị hạn chế. Dẫn liệu đầu tiên sử dụng trị liệu làm tan huyết khối để điều trị nhồi máu cơ tim bắt đầu vào năm 1958 khi Fletcher sử dụng trị liệu streptokinase liều cao, kéo dài.
Lịch sử : thuốc hạ đường huyết uống chủ yếu gồm những thuốc thuộc nhóm sulfonylurea. Thuốc đầu tiên của nhóm này, carbutamide, được đưa ra thị trường bị đình chỉ lưu hành những năm 1940 do gây độc tủy xương. Các biguanid, mà đại diện đáng chú ý nhất là phenformin, cũng chỉ được sản xuất một thời gian ngắn sau khi các sulfonylure ra đời. Phenformin bị đình chỉ lưu hành vì thuốc gây nhiễm acid lactic. Hiện nay, có sáu sulfonylure chia làm vào hai nhóm:
Lịch sử : năm 1935, người ta thấy chất màu prontosil được chuyển hóa in vivo thành hoạt chất sulfanilamid, một dẫn xuất ngăn ngừa được nhiễm liên cầu trên chuột. Sulfanilamid và sulfadiazin được cấp phép lần lượt vào năm 1939 và 1941. Do đó, các sulfonamid trở thành những tác nhân hoá trị liệu đầu tiên được dùng để ngăn ngừa và điều trị nhiễm khuẩn toàn thân của người. Từ đó tới nay, một loạt khác sulfonamid đã được cấp phép, mặc dù hiện nay, hiếm khi chúng được dùng đơn độc.
Lịch sử: việc tìm ra chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) đầu tiên là fluoxetin hồi đầu những năm 1970 và việc sử dụng nó sau đó tại Mỹ năm 1988 được xem là tiến bộ chính trong điều trị trầm cảm. Trước khi có fluoxetin, điều trị trầm cảm bằng thuốc chủ yếu giới hạn ở thuốc chống trầm cảm 3 vòng và chất ức chế monoamin oxidase. Do có những thuận lợi rõ rệt như cách dùng và khả năng dung nạp được cải thiện,
Tổng quan:các thuốc chống viêm đường hô hấp phá vỡ sinh bệnh học của viêm phế quản.Các thuốc này có thể ngăn ngừa hoặc biến đỏi phản ứng viêm dang diễn ra ở đường hô hấp.Các thuốc chống viêm đường hô hấp
Lịch sử, phân loại và những đặc điểm phân biệt: nhóm kháng sinh quinolon đã có những cải thiện đáng kể trong hoạt tính kháng sinh. Nói chung, các fluoroquinolon có hiệu quả cao chống vi khuẩn gram âm hiếu khí. Các quinolon mới hơn (như levofloxacin và sparfloxacin) cũng có hoạt tính đáng kể chống vi khuẩn gram dương và vi khuẩn kị khí. Các fluoroquinolon cũng có tác dụng chống Staphylococcus aureus, mặc dù đã có báo cáo về S. aureus kháng quinolon.