Lịch sử: dọa đẻ non (tử cung bắt đầu co trước tuần 37 của tuổi thai) xảy ra ở 15% số phụ nữ mang thai ở tây bán cầu. Điều trị bảo tồn bằng nghỉ ngơi tại giường, bù nước và an thần không phải luôn thành công, và đôi khi cần tới các tác nhân dược lý. Trước đây rượu etylic (ethanol) được sử dụng rộng rãi như là một thuốc sản khoa. Truyền ethanol để tạo nồng độ huyết thanh thấp hơn mức độc cho phép một chút, hay gây ra các phản ứng có hại do ethanol. Ethanol đi qua hàng rào rau thai, có thể cũng gây tác dụng và biến chứng cho thai nhi. Terbutaline được phép dùng năm 1974, là chất chủ vận beta2 đầu tiên được dùng trong sản khoa, tuy nhiên hiện nay nó không được khuyến nghị cho chỉ định này. Năm 1980, ritodrine, một chất chủ vận beta2, là thuốc duy nhất được FDA chấp thuận cho điều trị dọa đẻ non. Các chất chủ vận beta khác, như albuterol, cũng được dùng nhưng không có được sự chấp nhận phổ biến như ritodrin. Hiện nay, ritodrine được chấp nhận dùng trong sản khoa rộng rãi nhất.
Các thuốc khác đã được dùng và đang được nghiên cứu để phòng cơn co tử cung và dọa đẻ non. Magiê sulphat là một lựa chọn thay thế cho các thuốc giống tác dụng beta khá an toàn và hiệu quả. Nó được dùng rộng rãi hơn trong sản khoa nhằm phòng co giật tiền sản giật. Các hormon như progesteron và chất ức chế tổng hợp prostaglandin (ví dụ indomethacin, naprorex, aspirin), được dùng nhưng thành công hạn chế và gây nhiều phản ứng có hại. Các chất chẹn kênh calci cho kết quả khác nhau; nifedipin có khả năng dùng cho chỉ định này.
Cơ chế tác dụng: thuốc sản khoa làm giảm cơn co tử cung. Tác dụng này có thể đạt được thông qua nhiều cơ chế tác dụng khác nhau. Các betamimetic bao gồm các thuốc được dùng phổ biến như ritodrin và terbutalin. Các betamimetic khác được nghiên cứu bao gồm isoxsuprin, albuterol, metaproterenol, nylidrin, và fenoterol. Betamimetic tác động ưu tiên trên thụ thể beta, và chúng tác động rất ít trên thụ thể anpha-adrenergic. Tác dụng kích thích thụ thể beta2-adrenergic gây ức chế co cơ trơn trong đó có cơ trơn tử cung. Betamimetic có thể kích hoạt enzym adenyl cyclase, làm tăng sản sinh adenosin monophosphat vòng (AMP vòng). Việc ăng AMP vòng sẽ gây giãn mạch, giãn cơ trơn mạch máu và cơ trơn. Việc tăng AMP vòng có thể làm giảm calci nội bào bằng cách làm tăng giải phóng calci từ tế bào cơ trơn mạch máu và ngăn cản dòng calci qua màng. AMP vòng có thể làm bất hoạt myosin kinase, giảm phosphoryl hóa của myosin, giãn cơ trơn, và phòng cơn co tử cung.
Cơ chế tác dụng của các thuốc sản khoa ít được dùng phổ biến là tác động lên cân bằng calci hoặc hormon. Cơ chế tác dụng của magnesium sulfate vẫn chưa rõ. Người ta cho rằng magnesium đối kháng calci, ảnh hưởng đến tương tác actin-myosin và làm giảm co tử cung. Các cơ chế khác bao gồm magiê ức chế hoặc làm giảm dẫn truyền thần kinh, hoặc làm thay đổi phóng thích hoặc độ nhạy của acetylcholin. Các chất chẹn kênh calci (verapamil, nifedipin) ức chế dòng chảy calci vào cơ trơn tử cung. Giảm calci nội bào làm giãn cơ tử cung.
Các chất ức chế tổng hợp prostaglandin, như indomethacin, ức chế các prostaglandin làm giãn cổ tử cung và cơ tử cung. ức chế prostaglandin bào thai có thể gây đóng ống Botal sớm và tăng áp phổi thai nhi trong tử cung. Giãn cổ tử cung và cơ tử cung cũng phụ thuộc vào nồng độ progesteron thấp. Dùng progesteron có thể có tác dụng trong sản khoa bằng cách làm tăng nồng độ progesteron huyết thanh.
Đặc điểm phân biệt/các phản ứng có hại: tất cả các thuốc betamimetic có các phản ứng có hại giống nhau, tác dụng có hại của isoxsuprin mạnh hơn ritodrin hoặc terbutalin. Các thuốc đều có thể gây nhịp nhanh xoang, hạ huyết áp, và/hoặc đau thắt ngực. Các tác hại này phụ thuộc vào liều dùng và thường được kiểm soát bằng thay đổi tốc độ truyền. Tăng đường huyết cũng là phản ứng có hại tiềm tàng của ở các chất chủ vận beta. Các thuốc sản khoa khác được mô tả kém hiệu quả hơn và gây nhiều phản ứng có hại hơn nhóm betamimetic.
(Theo cimsi)