Cơ sở: thuốc tuyến giáp có trên thị trường là các chế phẩm có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo. Levothyroxin và Liothyronin được tổng hợp từ các muối Na đồng phân L của hormon tuyến giáp thiết yếu Triiodothyronin (T3) và Thyroxin (T4). Các thuốc tuyến giáp tự nhiên như thyroid và thyroglobulin có nguồn gốc từ tuyến giáp động vật và có chứa T3 và T4 với số lượng khác nhau. Các thụ thể hạt nhân của hormon tuyến giáp có ái lực với T3 cao hơn 10 lần so với T4. Vì nồng độ T3 và T4 trong tuyến giáp và các chế phẩm thyroglobulin có thể thay đổi, nên đáp ứng lâm sàng không thể tiên đoán được. Vì vậy, các nhà khoa học khuyến nghị khi kê đơn thyroid và thyroglobulin, bệnh nhân nên dùng cùng một hãng sản phẩm, không nên dùng các sản phẩm của nhiều hãng sản xuất.
Thuốc kháng giáp bao gồm propylthiouracil, methimazol, các thuốc chẹn beta, và dung dịch iodua Kali (xem phần thảo luận thuốc chẹn beta). Propylthiouracil và thethimazol được dùng trên lâm sàng từ năm 1950. Các thuốc này là liệu pháp đầu tiên cho bệnh nhân dưới 40 tuổi bị cường giáp Grave giai đoạn đầu.
Iod phóng xạ và phẫu thuật là các trị liệu thay thế trong cường giáp.
Cơ chế tác dụng: tác dụng của hormon tuyến giáp là rất rộng. Chúng liên quan đến cả đồng hóa lẫn dị hóa, đóng vai trò đồng hóa trong chuyển hóa và tăng trưởng, chúng đặc biệt quan trọng trong phát triển hệ thần kinh trung ương ở trẻ sơ sinh. Hormon tuyến giáp ngoại sinh làm tăng tốc độ chuyển hóa bằng cách làm tăng chuyển hóa protein và carbohydrat, tăng tân tạo đường, dễ dàng huy động kho lưu trữ glycogen và tăng tổng hợp protein. Các hormon huyến giáp điều chỉnh những khác biệt và tăng sinh tế bào, giúp myelin hóa các dây thần kinh và triển khai dẫn truyền sợi nhánh và sợi trục trong hệ thần kinh. Các hormon này cùng với hormon tăng trưởng đóng vai trò điều chỉnh tăng trưởng, đặc biệt là xương và răng. Hormon tuyến giáp làm giảm nồng độ cholesterol trong gan và máu, và có tác dụng kích thích trực tiếp lên tim. Tiêu thụ năng lượng của tim tăng khi dùng hormon tuyến giáp, dẫn tới tăng hiệu suất của tim.
Việc giải phóng T3 và T4 từ tuyến giáp vào vòng tuần hoàn được điều chỉnh bằng hormon kích thích tuyến giáp (thyrotropin), chất do tuyến yên tiết ra. Giải phóng thyrotropin được kiểm soát bởi việc tiết hormon giải phóng thyroid (TRH) từ vùng dưới đồi và theo cơ chế tác động ngược phụ thuộc vào nồng độ hormon tuyến giáp trong máu. Việc dùng liều dược lý với hormon tuyến giáp ngoại sinh cho bệnh nhân có tuyến giáp bình thường gây ức chế tiết hormon tuyến giáp nội sinh.
Đặc điểm phân biệt: mặc dù có nhiều chế phẩm hormon tuyến giáp, nhưng phần lớn các nhà lâm sàng dùng levothyroxin (T4). Hàm lượng hormon của các sản phẩm này ổn định hơn và đáp ứng lâm sàng dễ tiên đoán hơn. Trong một số trường hợp như hôn mê phù niêm và shock do tim phải chọn T3 để loại bỏ giai đoạn sau đối với sự biến đổi T4 thành T3. Bất chấp lựa chọn thuốc nào, bác sĩ và dược sĩ cần thận trọng khi dùng bất kỳ loại chế phẩm tuyến giáp nào cho bệnh nhân.
Methimazol là một dẫn xuất thioimidazol được FDA chấp thuận năm 1950. Một số BS lâm sàng cảm thấy nồng độ thyroxin và triiodotyronin khi dùng methimazol giảm nhanh hơn so với propylthiouracil. Thêm vào đó, methimazol có thể gây nguy cơ mất bạch cầu hạt thấp hơn propylthiouracil, và methimazol có thể dùng một liều / ngày, trong khi propylthiouracil phải dùng vài liều / ngày.
Phản ứng có hại: các phản ứng có hại chủ yếu do trị liệu tuyến giáp là cường giáp. Biểu hiện cường giáp do thuốc giống như cường giáp nội sinh.Tác dụng phụ do thuốc kháng giáp có thể rất nặng. Mất bạch cầu hạt mặc dù ít xảy ra nhưng gặp ở cả hai thuốc methimazole và propylthiouracil. Bệnh nhân trên 40 tuổi có thể mẫn cảm hơn. Phần lớn bệnh nhân hồi phục sau khi ngừng thuốc. Viêm gan có hoặc không vàng da, viêm mạch, hội chứng giống lupus, phát ban cũng gặp trong quá trình điều trị các thuốc kháng giáp.
(Theo cimsi)