Điều trị thoát vị đĩa đệm bằng mổ mở
Xét về một mặt nào đó, mổ là một cuộc đánh đổi giữa việc hết bệnh và việc nhận lấy một nguy cơ có thể xảy ra các biến chứng cũng như các ảnh hưởng về sau của cuộc mổ.
Xét về một mặt nào đó, mổ là một cuộc đánh đổi giữa việc hết bệnh và việc nhận lấy một nguy cơ có thể xảy ra các biến chứng cũng như các ảnh hưởng về sau của cuộc mổ.
Mổ mở có thể được coi là phương pháp cuối cùng để chữa bệnh thoát vị đĩa đệm.
Mổ nhằm mục đích lấy đi khối thoát vị để không còn gì chèn ép vào tủy hoặc rễ thần kinh của chúng ta . Để làm cho chúng ta khỏi phải chịu đau khi mổ, có 3 phương pháp phổ biến hiện nay là gây tê tại chỗ mổ, gây tê tủy sống và gây mê. Nếu chỉ gây tê tại chỗ mổ thì chúng ta sẽ khó mà chịu nổi cho dù đây là phương pháp an toàn nhất. Do sự phổ biến của các loại thuốc mê thế hệ mới mà hiện nay gây mê trở nên an toàn và tiện lợi ngang bằng hoặc thậm chí hơn so với gây tê tủy sống.
Có rất nhiều nghiên cứu, rất nhiều phương pháp, rất nhiều dụng cụ được phát minh cũng chỉ nhằm một mục đích làm giảm việc cắt đi cái phần cơ thể không bị bệnh đó của chúng ta . Người ta gọi các kĩ thuật chỉ cần cắt rất ít đó là các kĩ thuật ít xâm lấn. Trong mổ hở, vi phẫu thuật có độ xâm lấn ít nhất, tất nhiên cũng còn tùy vào người áp dụng nó.
Đối với các thoát vị đĩa đệm vùng thắt lưng, mổ từ phía trước hay phía sau tùy thuộc vào quan điểm và khả năng của bác sĩ mổ. Hiện nay, hầu hết các bác sĩ trên thế giới đều chọn mổ từ phía sau. Khi tới được nơi có khối thoát vị, bác sĩ sẽ phải tách các rễ thần kinh ra để thấy và lấy cho được khối thoát vị và toàn bộ nhân nhầy thoái hóa, một số trường hợp còn cần phải cắt đi các chồi xương chèn vào rễ thần kinh.
Đối với các thoát vị đĩa đệm ở vùng cổ, việc chọn đường mổ từ phía trước hay từ phía sau tùy thuộc vào khả năng của bác sĩ, tùy thuộc vào số lượng đĩa đệm bị thoát vị cũng như mức độ hẹp ống sống. Hầu hết các bác sĩ đều chọn đường mổ từ phía trước ở vùng cổ khi có dưới 3 đĩa đệm bị thoát vị. Bác sĩ phải tách hàng loạt các mạch máu, dây thần kinh, thực quản, khí quản ra mới tới được đĩa đệm và sau khi lấy hết đĩa đệm mới thấy được màng tủy và các rễ thần kinh, sau đó, một mảnh xương chậu được lấy ra để ghép lên chỗ mổ. Cũng tùy vào quan điểm của từng bác sĩ mà có người ghép xương, có người không ghép xương. Hiện nay có nhiều loại mảnh ghép nhân tạo giúp chúng ta không phải chịu thêm một vết mổ nữa để lấy xương ghép. Trong nhiều trường hợp, bác sĩ còn bắt thêm nẹp và vít bằng kim loại cho chúng ta , đặc biệt là khi chúng ta là người hút thuốc lá hoặc có các bệnh về đường hô hấp như viêm mũi xoang, viêm họng, viêm phế quản…
Thời gian mổ cho một đĩa đệm thoát vị có thể kéo dài từ 30 phút đến 3 – 4 giờ đối với vùng thắt lưng và 45 phút cho đến 4 – 5 giờ đối với vùng cổ. Thời gian nhanh hay chậm là tùy vào khả năng, tính cách của từng bác sĩ, tùy vào trang thiết bị của phòng mổ và mức độ khó khăn của từng cuộc mổ. Thời gian mổ lâu hay mau không quan trọng bằng kết quả sau mổ. Tuy nhiên, nếu mổ lâu quá thì lượng thuốc mê chúng ta hít vào sẽ nhiều hơn và khả năng xảy ra biến chứng, đặc biệt là nhiễm trùng, cũng cao hơn.
Xu hướng hiện nay trên thế giới là phải vận động sớm sau mổ, như vậy mới tăng cường được sự lưu thông của máu huyết, vết mổ mau lành hơn và người bệnh có thể tập phục hồi chức năng sớm, từ đó có thể trở lại với công việc nhanh hơn. Việc vận động sớm cũng giúp chúng ta tránh được việc các rễ thần kinh bị dính và gây đau sau này, một trong những biến chứng đáng sợ của mổ hở. Đa số các bác sĩ chủ trương dùng thêm nẹp ngoài trong những ngày đầu sau mổ thoát vị đĩa đệm.
Mổ chỉ là một phần trong toàn bộ quá trình chữa bệnh. chúng ta chớ vội tin rằng mình đã khỏe mạnh hoàn toàn khi thấy mình đã hết đau sau khi mổ. Tập vật lí trị liệu phục hồi chức năng sau mổ là một bước không thể thiếu. Thường thì 6 tháng sau mổ chúng ta mới có thể bình phục hoàn toàn nhưng sau 3 – 4 tuần là chúng ta có thể đi làm trở lại tuy vẫn còn phải kiêng cử và tiếp tục chữa bệnh.
Tại nước ta hiện nay mổ hở vẫn là phương pháp chữa bệnh thoát vị đĩa đệm triệt để và có kết quả tốt nhất. Tuy nhiên, các biến chứng của mổ hở làm cho các bác sĩ luôn phải cân nhắc khi nào thì nên mổ cho chúng ta . Các biến chứng có thể từ nhẹ nhàng như chảy một chút máu từ vết mổ cho đến nhiễm trùng, đau tăng lên sau mổ, liệt hoặc thậm chí chết người. Cũng may mắn là tỉ lệ bị biến chứng không cao lắm.
Khi bác sĩ quyết định mổ cho chúng ta có nghĩa đó là cách giải quyết hiệu quả nhất với cái giá phải trả ít nhất, tất nhiên là theo nhận định của chính vị bác sĩ đó. Và chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi bác sĩ này nói phải mổ, bác sĩ kia lại nói không. Mỗi bác sĩ có quan điểm riêng và có những hiểu biết, những kinh nghiệm khác nhau dù tất cả đều có một điểm chung: ai cũng là người giỏi nhất.
(Nguồn: Yhoctuxa)