Những bệnh nào gây ho?
Ho là một phản ứng của cơ thể, nhằm tống các chất bài tiết hoặc dị vật ra ngoài. Tuy nhiên, ho nhiều kéo dài thường khiến người bệnh lo lắng, nghĩ rằng mình mắc một bệnh gì nghiêm trọng... Mùa đông lạnh giá, các bệnh gây ho phát triển nhiều. Vậy cách phân biệt ho do các bệnh như thế nào để có thái độ xử trí thích hợp?
Ho là một phản ứng của cơ thể, nhằm tống các chất bài tiết hoặc dị vật ra ngoài. Tuy nhiên, ho nhiều kéo dài thường khiến người bệnh lo lắng, nghĩ rằng mình mắc một bệnh gì nghiêm trọng... Mùa đông lạnh giá, các bệnh gây ho phát triển nhiều. Vậy cách phân biệt ho do các bệnh như thế nào để có thái độ xử trí thích hợp?
Cách phân biệt những bệnh gây ho
Con người có thể ho do phản xạ hoặc theo ý muốn. Khi ho, các cơ hô hấp được huy động tối đa, làm cho áp lực trong lồng ngực và đường hô hấp ở mức tăng cao nhất. Độ tăng áp lực giữa khí đạo và không khí ngoài trời với việc đóng mở thanh môn, khiến tốc độ không khí được tống ra ngoài nhanh gần bằng tốc độ của âm thanh, đủ lực để đưa các dị vật ra ngoài.
Tổn thương viêm phổi trên phim Xquang (a) và chụp cắt lớp (b).
Có nhiều nguyên nhân gây ho: ho do những bệnh của đường hô hấp, nhưng cũng có khi ho do bệnh ở ngoài đường hô hấp. Việc phân biệt được ho do bệnh nào có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho bệnh nhân và gia đình có thái độ xử trí kịp thời. Có thể phân biệt các bệnh gây ho dựa vào tính chất ho và các biểu hiện kèm theo như sau:
Viêm họng cấp: ho có đờm hoặc ho khan, có thể có sốt cao nhưng cũng có khi không sốt. Nuốt vướng, có cảm giác rát họng. Nhìn thấy họng đỏ, có hạt hoặc có mủ; tuyến amiđan có thể sưng.
Viêm thanh quản: thường có ho khan; tiếng nói khàn hoặc mất tiếng. Nếu bị bệnh bạch hầu thanh quản thì tiếng ho ông ổng. Bệnh nhân trong thể trạng nhiễm khuẩn nhiễm độc nặng. Soi họng thấy có màng trắng ở họng, gây khó thở, nhiều khi phải mở khí quản để thở.
Viêm khí quản, phế quản cấp: giai đoạn đầu ho khan, giai đoạn sau có đờm, đờm đặc hoặc loãng, màu trắng hoặc vàng, có sốt cao, nếu phát hiện sớm và điều trị sớm sẽ mau khỏi.
Viêm phế quản mạn tính: thường gặp ở người hút thuốc lá. Ho có nhiều đờm, mỗi năm ho khạc khoảng 3 tháng, đã diễn ra trong vòng 2 năm liền. Bệnh hay tái phát do những đợt bội nhiễm hoặc tiếp xúc với các tác nhân gây viêm như không khí lạnh mùa đông, độ ẩm cao, hít phải hơi độc, bụi bẩn...
Giãn phế quản: ho nhiều về buổi sáng, có rất nhiều đờm, nếu để đờm vào cốc, thấy lắng thành 3 lớp, dưới là mủ, giữa là chất nhày, lớp trên cùng là bọt lẫn dịch. Bệnh giãn phế quản có khi ho ra máu; hay tái phát do đợt bội nhiễm.
Hen phế quản: gặp nhiều ở lứa tuổi trẻ và trung niên. Biểu hiện bệnh là: người bệnh không sốt; khó thở từng cơn, hay gặp cơn hen về ban đêm, trong lúc khó thở thấy tiếng rít cò cử. Sau mỗi cơn hen, bệnh nhân có ho và khạc ra nhiều đờm trắng, loãng. Bệnh hay tái phát nhiều lần do bội nhiễm; nếu bội nhiễm thì đờm có màu vàng.
Bệnh ho gà: thường gặp ở trẻ nhỏ, có sốt. Tính chất ho từng cơn, cuối cơn ho có tiếng rít như tiếng rít của gà gáy. Vì ho nhiều có thể gây vỡ phế nang, gây tràn khí màng phổi.
Ho do dị vật đường hô hấp: ngay sau khi mắc dị vật, bệnh nhân ho sặc sụa, mặt tím tái, có tiếng thở rít, người ngột ngạt như sắp chết. Nếu dị vật xuống sâu và ổn định thì đỡ ho, đỡ khó thở. Trường hợp dị vật gây viêm nhiễm thì ho có đờm hoặc có máu, ho dai dẳng, sốt cao, đau ngực.
Viêm phổi: bệnh nhân có sốt cao, rét run, đau ngực, ho có đờm quánh, dính, màu rỉ sắt. Xét nghiệm thấy bạch cầu trong máu tăng cao. Chụp Xquang phổi có hình ảnh viêm phổi.
Lao phổi: ho dai dẳng kéo dài, khạc ra đờm đặc, có khi lẫn máu hoặc ho ra máu tươi. Bệnh nhân thường sốt hâm hấp về chiều, người gầy, sút cân, chán ăn. Xét nghiệm đờm tìm thấy vi khuẩn lao trong đờm.
Áp-xe phổi: bệnh nhân có sốt cao, đau ngực, ho khan hoặc có đờm. Nếu ổ áp-xe vỡ thông vào phế quản thì ho ra nhiều đờm như mủ, mùi tanh hoặc rất thối.
Ung thư phế quản: hay gặp ở người già, người hút thuốc lá, thuốc lào. Bệnh nhân gầy sút nhanh, ăn uống kém, đau ngực, ho ra máu. Vì có khối u chèn ép nhiều gây khó thở, xẹp phổi. Cần đi chụp Xquang, chụp cắt lớp vi tính lồng ngực để xác định bệnh.
Ho do các bệnh tim mạch: tăng áp lực động mạch phổi, phổi bị ứ huyết, gặp trong các bệnh hẹp van hai lá, tâm phế mạn, suy tim, viêm màng ngoài tim khô hoặc có dịch.
Ho do áp-xe gan: ổ áp-xe gây phản ứng phổi màng phổi, kích thích màng phổi gây ho.
Ho do phụ nữ có thai, u xơ tử cung, bệnh trào ngược dạ dày, người rối loạn tinh thần... hoặc mắc một số bệnh toàn thân kèm viêm đường hô hấp cũng có ho, như bệnh cúm, sởi, bạch cầu, thương hàn, rubeon, bệnh nhiệt thán, các bệnh thuộc tai - mũi - họng. Ho còn gặp trong trường hợp bệnh nhân bị nhiễm không khí nóng hoặc lạnh, hít phải các hơi độc, hóa chất, thuốc lá gây kích thích niêm mạc đường hô hấp.
Dùng thuốc như thế nào?
Trong điều trị ho, quan trọng là phải điều trị nguyên nhân, đồng thời điều trị triệu chứng ho và làm cho đờm thoát ra ngoài cũng rất cần thiết. Thuốc ho có nhiều loại: loại tác dụng trên trung tâm hô hấp, các thuốc làm tan đờm, lỏng đờm. Tuy nhiên các thuốc này gây ức chế trung tâm hô hấp, không nên dùng cho người già, trẻ em, người viêm phế quản mạn tính, đặc biệt là bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính người suy hô hấp. Tùy theo từng trường hợp ho cụ thể mà các bác sĩ sẽ có chỉ định dùng thuốc.
Thuốc ho phải dùng với liều lượng tối thiểu, cần dùng đúng liều cho trẻ em, người cao tuổi, phải phối hợp với điều trị bệnh chính, vì thế mọi người không được tự ý mua thuốc dùng một cách tùy tiện.
Theo SKDS