Thuốc đặc hiệu dùng trong các bệnh khớp
Thuốc đặc hiệu còn gọi là các thuốc làm thay đổi bệnh khớp, tác động bằng cách ức chế các quá trình cơ bản gây viêm khớp trong các bệnh viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp và viêm khớp vảy nến.
Thuốc chống sốt rét tổng hợp nhóm quinolon
Thuốc có thể có tác dụng ức chế giải phóng men lysozym (tiêu thể) bằng cách làm bền vững màng của lysosom, do đó làm giảm phản ứng viêm trong các bệnh khớp, thuốc chỉ có tác dụng khi dùng kéo dài nhiều tháng nên hay được dùng để điều trị duy trì, củng cố. Chỉ định trong bệnh lupus ban đỏ rải rác, viêm khớp dạng thấp, viêm khớp mạn tính thiếu niên thể đa khớp, các thể khác của bệnh tạo keo như xơ cứng bì, viêm da và cơ...
Nhóm thuốc quinolon có thể gây tác dụng phụ: rối loạn tiêu hóa, rối loạn tiền đình xuất hiện trong 3 tháng đầu; đục giác mạc, tổn thương võng mạc, sạm da, nhược cơ, rối loạn điều tiết mắt xuất hiện muộn hơn (sau 1 năm). Dùng kéo dài trên 2 năm có thể gây tổn thương võng mạc nặng không hồi phục. Cần chú ý khám mắt định kỳ nếu dùng thuốc quá 6 tháng.
Muối vàng
Cơ chế tác dụng có thể do ức chế men tiêu thể và khả năng hoạt động của đại thực bào, hiện nay được dùng để điều trị viêm khớp dạng thấp thể nặng không đáp ứng với các thuốc khác. Là loại thuốc điều trị cơ bản bệnh, có nhiều tai biến nên chỉ có khoảng 30% số bệnh nhân chịu đựng được thuốc.
Tác dụng không mong muốn có thể gặp là: dị ứng ngoài da, sốt cao, viêm niêm mạc tiêu hóa, viêm thận, giảm bạch cầu, tiểu cầu, thiếu máu. Cần theo dõi chặt chẽ khi dùng thuốc để kịp thời dừng điều trị.
D-Penicillamin hay dimethylcystein (Trolovol Kupren)
Cơ chế tác dụng có thể là do phá hủy phức hợp miễn dịch, yếu tố dạng thấp. Được dùng để chữa viêm khớp dạng thấp thể nặng, thể ngoan cố.
Tác dụng phụ: rối loạn tiêu hóa, dị ứng da, viêm thận, giảm bạch cầu, tiểu cầu... cần theo dõi chặt chẽ khi dùng thuốc.
Thuốc ức chế miễn dịch
Dựa vào cơ chế bệnh sinh của viêm khớp dạng thấp và các bệnh tạo keo là các bệnh tự miễn dịch, người ta sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch để điều trị trường hợp nặng và không đáp ứng với các thuốc khác.
Methotrexat liều nhỏ: Do thuốc có cấu trúc tương tự acid folic nên nó tranh chấp với acid này tại vị trí hoạt động của nó trong quá trình tổng hợp pyrimidin dẫn đến giảm tổng hợp DNA. Ngoài ra, methotrexat có thể có tác dụng kháng viêm và ức chế miễn dịch. Sau 3 tháng nếu thuốc không có tác dụng thì ngừng. Thuốc gây tác dụng phụ: giảm bạch cầu, độc gan thận, tổn thương mô phổi.
Sulfasalazine: Là sự kết hợp của 5-aminosalisylic và sulfapyridin, có tác dụng ức chế hoạt hóa tế bào lympho B và ức chế hoạt hóa các tế bào tiêu diệt tự nhiên và yếu tố dạng thấp.
Leflunomide: Thuốc ức chế tổng hợp pyrimidin của con đường chuyển hóa novo. Dùng thuốc đơn độc hoặc kết hợp với methotrexat.
Cyclophosphamide: Thuộc nhóm ankylan, có tác dụng liên kết với acid nhân và protein bởi các mối gắn với phân tử lớn trong tế bào, thuốc còn ức chế phản ứng miễn dịch thứ phát. Chỉ định trong bệnh luput có tổn thương thận. Thường dùng với corticoid.
Cyclosporin A: Thuốc ức chế các pha ban đầu của sự hoạt hóa tế bào T, do đó ngăn chặn sớm sự ức chế các gen. Chỉ định trong các bệnh tự miễn, các thể viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vẩy nến kháng thuốc. Dùng đơn độc hoặc kết hợp với methotrexat.
Azathioprin: ức chế tổng hợp purin, chỉ định trong bệnh luput, viêm mạch, viêm khớp dạng thấp.
Các thuốc trên thường dùng với liều trung bình và kéo dài từ 1-3 tháng. Chú ý nhóm thuốc này có nhiều tác dụng phụ nhất là các tai biến về máu, nên khi dùng phải theo dõi chặt chẽ.
Thuốc ức chế TNF
Yếu tố hoại tử khối u alpha (Tumor Necrosis Factor-alpha - TNF-alpha) là một protein do cơ thể sản sinh ra trong phản ứng viêm, trong phản ứng của cơ thể với chấn thương. TNF thúc đẩy quá trình viêm, sốt và các dấu hiệu có liên quan (đau, nhạy cảm đau và sưng) trong một số bệnh cảnh viêm gồm cả viêm khớp dạng thấp. Do đó, các thuốc ức chế TNF-alpha sẽ có tác dụng chống viêm, giảm đau, giảm sưng tại các tổ chức viêm và có thể làm chậm sự tiến triển của viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp và viêm khớp vẩy nến, đặc biệt là khi dùng kết hợp với methotrexate. Hiện tại có 3 chất ức chế TNF-alpha đã được dùng bao gồm etanercept, infliximab và adalimumab.
Thuốc ức chế Interleukin
Actemra: Ở bệnh nhân viêm khớp có sự tăng chất IL-6 (interleukin-6), một chất hóa học truyền tin tham gia vào phản ứng miễn dịch phá hủy ở trung tâm của viêm khớp. Actemra được dùng bằng dạng dịch truyền tĩnh mạch, là thuốc ức chế IL-6 đầu tiên dùng cho viêm khớp. Actemra được chỉ định cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp mức độ vừa và nặng không đáp ứng với một hoặc nhiều chất ức chế TNF. Actemra không dùng kết hợp với các thuốc ức chế TNF (cimzia, enbrel, humira, remicade và simponi) hoặc phương pháp trị liệu sinh học khác cho điều trị viêm khớp. Tuy nhiên, nó có thể được dùng kết hợp với các thuốc DMARD khác như methotrexate.
Diacerein:
Cơ chế tác dụng: ức chế sự sản xuất và hoạt động của chất cytokine IL-1α tiền viêm và tiền dị hóa cả ở lớp nông và lớp sâu của sụn, màng hoạt dịch và các thành phần của chất căn bản ngoài tế bào như proteoglycan, aggrecan, acid hyaluronic và chất tạo keo typ II.
Diacerein có thể uống kéo dài. Thuốc làm cho nước tiểu có màu đỏ nhưng không nguy hiểm chỉ cần biết và giải thích cho bệnh nhân yên tâm.
Theo SK&ĐS