I – ĐẠI CƯƠNG
Châm tê là phương pháp dùng kim châm vào một huyệt để nâng cao ngưỡng đau, giúp người bệnh có thể chịu đựng được cuộc mổ trong trạng thái tỉnh. Cảm giác sợ, nóng, lạnh hầu như không thay đổi, chỉ có cảm giác đau giảm xuống rõ rệt hoặc hết.
Phương pháp châm tê dựa trên nguyên lý châm có thể chống đau và điều chỉnh chức năng sinh lý cơ thể của châm cứu.
Hiện nay số ca mổ châm tê trên thế giới đã lên đến hàng trăm vạn, được tiến hành ở nhiều nước (Trung Quốc, Việt Nam, Pháp, Ý, Nhật, Mỹ, Ấn độ, Serilanca, Miến điện, Liên Xô…) đã đạt được kết quả nhất định và được coi là một phương pháp vô cảm. Nhưng cũng không phải không có ý kiến phản đối, trong số đó có người cho cảm giác tê là do bệnh nhân bị ám thị.
Dựa vào thực tiễn trong nước, có thể khẳng định: nếu chọn đúng đối tượng, châm tê có thể phát huy được tác dụng gây tê của nó và có thể dùng trong nhiều loại phẫu thuật.
II – PHƯƠNG PHÁP CHÂM TÊ
A – NHỮNG VIỆC PHẢI LÀM KHI MỔ CHÂM TÊ
1. Chọn người bệnh, loại bệnh để mổ
Nói chung nếu chọn người bệnh bình tĩnh, khi châm tê thì dễ đắc khí và có khả năng làm theo lời khuyên của thầy thuốc ngay trong lúc mổ. Nên chọn loại bệnh mà thời gian mổ không quá dài ở mọi lứa tuổi, tốt nhất là thanh niên trở lên, cả nam lẫn nữ, có hay không có chống chỉ định gây mê bằng thuốc (như các bệnh viêm có chức năng hô hấp, chức năng gan, chức năng thận kém, đi ứng với thuốc tê v.v...)
2. Hướng dẫn, dặn dò người bệnh
Khi mổ châm tê người bệnh tỉnh nên càng bình tĩnh càng thuận lợi cho cuộc mổ. Hơn nữa họ còn phải làm theo hướng dẫn của thầy thuốc, chủ động giữ gìn cho hơi thở ít bị rối loạn. Do đó cần phải hướng dẫn để người bệnh yên tâm, bình tĩnh phối hợp tốt với kíp mổ.
3. Bảo vệ người bệnh, thực hiện sự phối hợp giữa thầy thuốc và người bệnh để đưa cuộc mổ đến mức thành công nhất
Trên tinh thần thương yêu người bệnh, các thầy thuật ngoại khoa, châm tê, hồi sức phải chú ý đến công tác bảo vệ người bệnh. Cụ thể là giữ vững tinh thần, động viên người bệnh và bằng những kỹ thuật chuyên môn của mình, giảm bớt sự đau đớn, kịp thời điều hòa chức năng sinh lý của người bệnh đã bị ca mổ làm ảnh hưởng, tạo điều kiện tốt nhất để người bệnh phối hợp tốt với thầy thuốc.
Châm tê chưa làm hết đau hoàn toàn, có người bệnh khi mổ còn khó chịu nên có những phản ứng co cứng, thở hổn hển, tim đập nhanh, huyết áp tăng v.v... Do còn tỉnh nên trạng thái tinh thần của họ ảnh hưởng rất lớn đến sự đáp ứng sinh lý của cơ thể đối với tác dụng của châm cũng như đối với các kích thích của cuộc mổ. Khi căng thăng quá, cảm giác tinh thần về đau lập tức trở nên nhạy bén, cơ thế cảm thấy đau trước khi bị đau, ngưỡng đau đồng thời trở nên rất thấp, trên cơ sở đó mọi thao tác của ngoại khoa đều có thể gây đau... Cho nên phải phòng trước, và phải giữ cho sự hiệp đồng giữa thầy thuốc và người bệnh được hài hòa. Người bệnh thì yên tâm tin tưởng và sẵn sàng làm theo yêu cầu của thầy thuốc, thao tác ngoại khoa thì nhẹ nhàng, chính xác khẩn trương, châm tê thì đảm bảo cung cấp đủ lượng kích thích cần thiết, người hồi sức thì chu đáo trong việc phục hồi lượng máu, lượng điện giải đã hao hụt để duy trì sức chịu đựng của người bệnh.
B - TRÌNH TỰ TIẾN HÀNH CỦA MỘT CUỘC MỔ CHÂM TÊ
1.Chuẩn bị:
Thăm khám trước khi mổ như thường lệ.
Thầy thuốc ngoại khoa dự kiến cách mổ, người châm tìm hiểu người bệnh, châm thử để đánh giá mức độ đáp ứng và người hồi sức cũng như có kế hoạch cấp cứu, hồi sức khi cần.
Trước ngày mổ cần hội ý thống nhất phương án mổ, cách thức châm, cách thức phục vụ người bệnh trong và sau mổ.
2.Đưa bệnh nhân vào ca mổ:
Đêm hôm trước cho người bệnh uống thuốc ngủ và thuốc an thần. Khi đưa người bệnh vào phòng mổ, một mặt chuẩn bị tiêm truyền, đo huyết áp lấy mạch, đo tần số hô hấp v.v... Mặt khác bắt đầu châm kim theo phương án đã chuẩn bị. Độ 15 phút sau, cho nửa liều thuốc tiền mê, tiếp tục vê kim hoặc thông điện đến phút thứ 25 hoặc 30 có thể bắt đầu mổ được (gần đến lúc mổ có thể cho tiêm nốt nửa liều tiền mê, hoặc nếu gây được cảm giác đắc khí thật tốt và dự kiến bệnh nhân có thể qua được dễ dàng thì rạch da, cơ, nên dành thuốc tiền mê còn lại cho khi đang mổ.
Trong lúc mổ, mọi biến đổi về hô hấp, mạch, huyết áp và các biểu hiện sinh lý khác liên quan đến sức chịu đau của người bệnh đều được theo dõi chu đáo, việc truyền dịch, máu, điện giải… vẫn làm như trong mổ gây tê, mê thông thường.
Nếu bệnh nhân không đau lắm, không cần phải cho thuốc giảm đau. Khi qua các tố chức hoặc các vùng nhạy cảm như màng bụng, màng phổi, màng treo ruột, màng xương, lân cận các vùng thần kinh hoặc các dây thần kinh lớn nên phong bế bằng một ít thuốc tê, vừa nâng tác dụng giảm đau của châm tê vừa giảm bớt cảm giác do đụng chạm sờ mó để bệnh nhân bớt căng thẳng. Từ khi bắt đầu châm cho đến khi mổ xong, kíp mổ nên hướng dẫn người bệnh hít thở đều đặn, sâu, dài cho thầy thuốc ngoại khoa dễ làm việc, cho châm tê phát huy tốt tác dụng. Người châm tê cũng phải chia sẻ với bệnh nhân nỗi băn khoăn hoặc sự lo sợ của họ khi bị đau, lau mồ hôi, cho nước thấm giọng và dịu dàng,thân thiết khích lệ họ.
Ở những thì mổ ít đau, nên dừng vê kim hoặc dừng thông điện cho bệnh nhân nghỉ.
Khi đóng lớp da (lúc này bệnh nhân thường thấm mệt và thường bị đau nên cho thuốc giảm đau, và ngoại khoa cũng nên làm nhanh gọn để kết thúc sớm ca mổ.
3. Chăm sóc sau khi mổ:
Thường là nhẹ nhàng vì người bệnh tỉnh và không có tác dụng phụ của thuốc tê, mê. Tuy nhiên vẫn phái theo dõi chu đáo, đầy đủ, chú ý ảnh hưởng của thao tác châm tê: trong lúc mổ, khi vê kim hoặc thông điện, tay chân người bệnh thường căng, tức, nặng như có hàng chục cân đè lên người. Cảm giác này.sẽ giảm và khi về bệnh phòng vài giờ cảm giác này hết hẳn, tay chân người bệnh vận động như thường. Nếu vê kim liên tục và miết mạnh vào kim nhiều có khi một hai hôm sau vẫn còn thấy nặng nề, khó chịu.
C - NỘI DUNG PHƯƠNG PHÁP CHÂM TÊ
1. Hai yếu tố cơ bản quyết định kết quả của châm tê.
a) Kỹ thuật châm tê:
Cần chọn huyệt thích hợp, huyệt chọn dùng phải liên quan mật thiết đến vùng mổ, phải dễ gây đắc khí (có cảm ứng mạnh), không ở vị trí trở ngại cho thao tác ngoại khoa và khi vê hoặc xoáy kim không làm chảy máu.
Cường độ và tần số kích thích phải phù hợp với từng người và từng thì mổ, để người bệnh chịu được thao tác của ngoại khoa, cường độ và tần số quan hệ khăng khít với nhau để đảm bảo lượng kích thích nhất định. Ví dụ ở những thì mổ khẩn trương (rạch da, rạch màng bụng hoặc khi thao tác gần các bó mạch thần kinh lớn, các đám rối thần kinh . . . nên cho tần số cao và cường độ thấp. Thực tiễn cho thấy như vậy người bệnh dễ chịu hơn.
b) Sự đáp ứng của người bệnh
Đáp ứng về tê:nếu có đáp ứng kích thích của châm thì cảm giác tê nói chung xuất hiện từ từ các đầu chi chỏm và từ đó lan ra khắp mặt da toàn thân.
Đáp ứng về tinh thần:nếu người bệnh có nghị lực tin tưởng vào sự sắp xếp của thày thuốc thì có thể xem như đã thuận lợi được một phần.
Có những người bệnh ngủ sau khi tiên mê. Lúc này trạng thái tinh thần ở vị trí thứ yếu, tác dụng của châm ở vị trí nổi bật.
Khi châm thích vào huyệt, người bệnh có thể tê nhiều tê ít hoặc không tê. Khi đã tê, nếu tin tưởng thì mức độ tê sẽ được giữ vững hoặc ít phát huy thêm, trái lại, nếu lo sợ thì độ tê sẽ giảm sút nhiều.
Do đó người bệnh qua được ca mổ không phải đơn thuần nhờ vào hiệu quả gây tê của châm, mà còn chịu ảnh hưởng của trạng thái tinh thần của người bệnh biểu hiện ra trong quá trình mổ.
2. Kỹ thuật châm tê
Đối với người làm châm tê, phải nắm vững kỹ thuật châm tê.
a) Lượng kích thích
Châm cần đạt đắc khí, kinh nghiệm lâm sàng cho biết: Khi châm tê nếu người bệnh dễ đắc khí vị thầy thuốc duy trì được mức độ đắc khí thích đáng thì cuộc mổ sẽ thuận lợi, cũng còn lưu ý trong thực nghiệm lâm sàng, châm không đắc khí cũng có thể làm tê được.
Khi châm đắc khí rồi, nếu chỉ lưu kim mà không tiếp tục vê kim hoặc thông điện thì hiệu qủa làm tê sẽ giảm đi. Nhưng nếu người bệnh có cảm giác đau khi vê kim thì hiệu quả làm tê cung kém.
Tác dụng tê và sự đáp ứng của người bệnh là hai nhân tố giúp người bệnh chịu được cuộc mổ. Hai nhân tố này luôn luôn phụ thuộc vào lượng kích thích của châm. Lượng kích thích đủ thì hiệu quả của tê được duy trì tốt. Trong khi mổ mọi kích thích của thao tác ngoại khoa (một vết rạch, một nhát cắt, một động tác co kéo thăm dò) đến làm giảm sức chịu đựng và tăng thêm sự đau đớn cho người bệnh. Vì vậy về mặt châm, lượng kích thích đủ là yếu tố quan trọng có tác dụng quyết định để khống chế cái đau do thao tác mổ, để giữ vững hiệu quả tê và nâng cao sức chịu đựng của cơ thể.
b) Dùng thêm thuốc chấn tĩnh giảm đau để tăng hiệu quả châm tê
Dùng châm tê để mổ cũng như các phương pháp gây tê, mê khác, phải chú ý cho thuốc chấn tĩnh, giảm đau để giảm đến mức thấp nhất sự lo lắng, hồi hộp của người bệnh, đảm bảo cho chức năng tuần hoàn: hô hấp ít bị rối loạn, tạo ra ở người bệnh trạng thái gián tiếp theo kích thích, trên cơ sở đó châm tê phát huy tác dụng để giúp được người bệnh qua được ca mổ an toàn.
c) Cách châm kinh và kích thích huyệt
Cần dựa vào tình hình cụ thể của người bệnh gầy hay béo, cơ dày hay mỏng để châm nông hay sâu (thường châm sâu 1- 2 thốn) và phải làm người bệnh có cảm giác căng, tức, nặng ở nơi cần châm, cần chú ý không được làm tổn thương các cơ quan quan trọng và tránh mạch máu. Ở loa tai, nên châm sâu khoảng 0,2- 0,3 tấc và phải làm người bệnh có cảm giác căng, tê, nóng ở loa tai.
Sau khi châm đạt đắc khí rồi, có thể chọn dùng: lay động kim bằng tay, kfch thích bằng xung điện, hoặc tiêm thuốc để kích thích huyệt.
Lay động bằng tay:có thể dùng lối vê, lăn hoặc mổ cò, cũng có thể vừa vê kim vừa mổ cò. Nếu châm ở loa tai chỉ vê kim không mổ cò: tần số lay động kim ước 90- 160 lần/phút. Biên độ vê kim trong khoảng 900 - 3600. Biên độ mổ cò trong vòng 100 milimet, cường độ vừa phải. Khi lay động kim bàng tay, động tác phải nhịp nhàng giữ cho thân kim và mũi kim cùng một hướng. Trong quá trình lay động kim liên tục, thầy thuốc có thể thấy mũi kim không chật như lúc đầu mà lỏng lẻo. Lúc này cần mở rộng biên độ vê kim mổ cò hoặc thay đổi hướng mũi kim để lấy lại mức độ đắc khí cũ. Lay động kim băng tay có lợi: có thể điều chỉnh kích thích cho thích hợp với sự tiếp thu của bệnh nhân và yêu cầu của thì mổ, cách làm nay đơn giản không cần thiết bị nào khác ngoài kỹ thuật châm, vê thành thạo một vài chiếc kim.
Kích thích bằng xung điện:sau khi châm kim vào huyệt đạt cảm giác đắc khí, thông vào kim một dòng điện nhất định. Người ta thường dùng loại xung nhọn, tần số xung điện có thể khoảng trăm lần/phút đến vài trăm lần/giây.
Không nên dùng điện một chiều, dễ làm lỏng tổ chức và gẫy kim vì tác dụng phân giải iôn của nó cũng như trong điều trị, ở đây khi thông điện và ngắt điện cần chú ý tăng dần hoặc giảm dần cường độ dòng điện, tránh cho người bệnh những kích thích đột ngột. Thông điện liên tục trong thời gian dài cơ thể có thể quen. Những thì mổ nào không gây kích thích nhiều nên ngắt điện cho người bệnh nghỉ, những thì mổ quan trọng cần chú ý tăng thích đáng cường độ dòng diện.
Cường độ kích thích:cường độ và tần số tác động phù hợp với từng người và từng thì mổ. Nói chung, cường độ kích thích cần đủ mạnh để duy trì đắc khí tốt, thấp quá hoặc mạnh quá đều làm hiệu quả của châm tê giảm sút. Ví dụ:. khi lay động kim bằng tay, người bệnh có cảm giác căng tức, nặng là vừa. Nếu có cảm giác đau là cường độ quá mạnh. Khi thông điện người bệnh có cảm giác tê buồn hoặc như đấm vào người và nhóm cơ quanh kim co duỗi, nhịp nhàng là vừa. Nếu có cảm giác đau hoặc nóng bỏng là cường độ quá mạnh. Thời gian gây được tê: trung bình khoảng 20- 30 phút đã có thể làm ngưỡng đau của người bệnh được nâng lên mức khá cao để cơ thể tiếp thu được ca mổ.
Lưu kim trong một số thì mổ. Khi kích thích của mổ tương đối nhẹ có thể ngừng lay động kim hoặc ngừng thông điện: Trong thời gian lưu kim có thể duy trì hiệu quả tê ở mức độ nhất định nhưng nếu lưu kim thời gian dài hiệu quả châm tê kém đâu đi. Vì vậy không nên lưu kim lâu quá. Khi sắp bước vào thì mổ gây kích thích mạnh cần phải lay động kim hoặc thông điện trước để khỏi ảnh hưởng đến hiệu quả châm tê.3. Chọn huyệt
Châm tê phát triển trên cơ sở kinh nghiệm lâm sàng của châm cứu, cách chọn huyệt trong châm tê cũng dựa theo lý luận tạng, phủ, kinh lạc. Ngoài ra còn chọn huyệt theo lý luận sinh lý giải phẫu thần kinh.
a) Lấy huyết theo lý luận tang phủ kinh lạc
Theo lý luận này châm tê làm cho khí huyết vận hành thông suốt trong kinh lạc, tạng phủ trong cả quá trình mổ để đạt kết qủa không đau và khống chế rối loạn sinh lý. Vì vậy khi chọn huyệt, cần chú ý đến đường đi của kinh mạch, quan hệ giữa các tạng phủ kinh mạch với vị trí mổ.
Lấy huyệt theo kinh- chọn kinh:dựa trên nguyên tắc kinh mạch đi qua vùng nào có tác dụng phòng chống được bệnh tật hoặc đau đớn liên quan đến vùng đó, cho nên phải chọn những kinh mạch trên hoặc gần đường rạch và có quan hệ với tạng phủ sẽ động đến khi mổ. Ví dụ: mổ vùng mật cổ nên chọn kinh Dương Minh Đại trường ở tay, mổ dạ dày nên chọn kinh Dương Minh vị ở chân, mổ vùng hố chậu nên chọn kinh Dương và kinh Quyết âm can ở chân.
Chọn huyệt:nói chung mỗi huyệt có 3 loại tác dụng: tại chỗ, theo đường kinh và toàn thân. Người xưa đã phân huyệt làm nhiều loại. Những loại huyệt thường dùng trong châm tê có:
Huyệt Ngũ duTỉnh, Huỳnh, Du, Kinh, Hợp) còn gọi là hợp du của chính kinh do (Bản kinh). Trong số này nên nhớ, huyệt Du chống đau tốt, huyệt Hợp dùng trong mổ tạng phủ tốt.
Huyệt Nguyên và huyệt Lạcđôi huyệt Nguyên Hợp cốc và Thái xung thường được dùng trong nhiều loại mổ. Cũng có thể dùng đôi huyệt: Nguyên lạc của hai kinh có quan hệ biểu lý.
Huyệt Du ở lưng và huyệt Mộ.các huyệt Du ở lưng được dùng tương đối rộng rãi, còn các huyệt Mộ thường dùng là Chương môn, Quan nguyên, Trung cực.
Huyệt khích:trong mổ ngực, người ta thường hay dùng, Khích môn của kinh quyết âm tâm bào ở tay; trong mổ sản phụ khoa dùng huyệt Trung đô là khích của kinh quyết âm can ờ chân.
Huyệt hợp ở dưới:Túc tam lý, Thượng cự hư, hạ cự hư thường được dùng trong các cuộc mổ bụng vùng trên và bụng dưới.
Mổ mắt dùng huyệt của kinh Quyết âm can là hàm ý can khai khiếu ra mắt, mổ xương dùng huyệt của kinh Thiếu âm thận là hàm ý thận chủ xương. Trong quá trình mổ có thể có các phản ứng tim đập nhanh hoặc chậm lại, thở gấp, khó chịu, bồn chồn trong ngực do "tâm trí bị nhiễu loạn" có thể dùng thần môn, toàn liên ở loa tai hoặc nội quan.
b) Lấy huyệt theo lý luận sinh lý giải phẫu thần kinh
Tại vi trí Y học dân tộc gọi là huyệt, cơ quan nhận cảm dược phân phối nhiều hơn vùng kế cận; cơ quan nhận cảm đó, theo học thuyết thần kinh đó là cơ sở vật chất tiếp thu kích thích của huyệt; trong mổ châm tê, lượng kích thích đến từ huyệt và kích thích gây đau đớn từ nơi mổ được truyền vào trung khu thần kinh, qua phân tích và xử lý ở đó sinh ra hiệu qua châm tê. Dựa vào đặc điểm sinh lý giải phẫu thần kinh có mấy cách chọn huyệt sau đây:
Lấy huyệt ở tiết đoạn gần:chọn huyệt thuộc sự chi phối của cùng một tiết đoạn hoặc tiết đoạn gần với vị trí mổ. Ví dụ, nhổ răng có thể chọn các huyệt Hạ quan ,Giáp xa, Thừa tương, Nhân trung tùy theo vị trí răng bị bệnh, cắt các nang u bã ở da có thể chỉ cố định kim ở mặt da hoặc gài kim dưới da nơi mổ rồi thông điện để kích thích là được.
Có lúc huyệt chọn tuy ở mặt ngoài cơ thể có thể cách nơi mổ tương đối xa nhưng vẫn thuộc cùng một tiết đoạn hoặc tiết đoạn gần chi phối. Ví dụ mổ ở khoang ngực, khoang bụng có thể chọn huyệt Du ở lưng, huyệt Giao tích ở hai bên cột sống tương ứng để châm, mổ ngực, mổ tuyến giáp chọn Hợp cốc, Nội quan thuộc tiết đoạn tủy gần vị trí mổ.
Lấy huyệt ở tiết đoạn xa:quan sát lâm sàng và thực nghiệm cho biết huyệt châm có cảm giác đắc khí mạnh, hiệu quả chững đau thường tốt và phạm vi chống đau rộng. Do đó tuy không cùng tiết đoạn với cơ quan và vị trí mổ, người ta thường chọn số huyệt cảm ứng mạnh ấy hợp thành đơn, huyệt dùng cho nhiều loại mổ. Ví dụ: Hợp cốc, Nội quan có thể dùng gây tê mổ ở đầu mặt, cổ, ngực...Trong lâm sàng người ta thường phối hợp hai phương pháp lấy huyệt ở tiết đoạn gần và tiết đoạn xa với nơi mổ vì thấy cách này đưa đến hiệu quả tốt hơn so với chỉ lấy huyệt ở tiết đoạn xa. Tuy nhiên một đơn vị huyệt dùng được cho nhiều loại mổ cũng có lợi nhất định trong việc phổ cập châm tê.
Kích thích dây thần kinh:hiện nay trong mổ bỏ tứ chi, người ta hay dùng cách trực tiếp kích thích vào đây thần kinh chi phối vùng mổ. Ví dụ: trực tiếp kích thích rễ dây thần kinh thắt lưng 3- 4, dây thần kinh đùi, dây thần kinh hông để làm một số ca mổ ở chân kích thích đám rối thần kinh cánh tay (thông qua huyệt Thiên tỉnh, huyệt Cực tuyền) để làm một số ca mổ tay v.v... Trong mổ tuyến giáp trạng, mổ sọ não, có lúc người ta cũng dùng phương pháp kích thích dây thần kinh. . ..
c) Chọn huyệt ở loa tai
Thường làm như sau: huyệt quan hệ với da, phổi (nếu mổ qua da), huyệt quan hệ với cơ quan định mổ: huyệt thần môn (để an thần) huyệt giao cảm (nếu mổ nội tạng) ý nghĩa một số huyệt ở loa tai dùng trong châm tê. Thần môn có tác dụng làm yên tĩnh, gây ngủ, tiêu viêm, điều chỉnh hưng phấn, ức chế của vỏ não. Giao cảm có tác dụng giãn cơ trơn, giãn mạch, yên tĩnh, gây ngủ. Dưới vỏ não có tác dụng điều chỉnh hưng phấn, ức chế của vỏ não, yên tĩnh, tiêu viêm.
Một số nơi đã phối hợp huyệt ở thân thể với huyệt ở loa vai: dùng tổng hợp như vậy có hiệu quả hơn, hay dùng đơn thuần huyệt thân thể hoặc huyệt ở loa tai hơn, hiện nay chưa kết luận.
4. Dùng thuốc hỗ trợ:trong các ca mổ bằng phương pháp gây tê, mê, thuốc hỗ trợ và có tác dụng nâng cao hiệu quả tê, mê, vừa bảo đảm cho chứcnăng của tuần hoàn và hô hấp được bình thương. Châm tê cũng vậy, trước và trong khi mổ cần có thuốc hỗ trợ, lượng thuốc dùng có thể ít hơn so với gây tê, mê, cũng có ca mổ không phải dùng thuốc hỗ trợ.
a) Thuốc hỗ trợ trước khi mổ
Để trấn tĩnh không đau, người ta dùng Dolacgan, Phenecgan, Aminazin, có nơi chỉ dùng Dolacgan (hoặc các chế phẩm tương tự khác) hoặc phối hợp với các thuốc khác dưới dạng Coctaillytique. Cần nhớ không nên dùng Dollacgan cho trẻ em dưới 1 tuổi; những bệnh gan, thận suy không nên dùng Phenecgan, Aminazin. Dễ ức chế sự tiết dịch của các tuyến nước bọt, mồ hôi, đường hô hấp, dạ dày, ruột, có lợi cho việc thông suốt đường hô hấp, người ta dùng thuốc chống tiết Choán như Atropin, Scopolamin, bệnh nhân Glôcôm (tăng nhãn áp) không dùng atropin người già và trẻ em không nên dùng Scopolami
b) Thuốc hỗ trợ trong khi mổ
Nói chung trong khi mổ nếu người bệnh đau nhiều có thể cho thuốc tê như novocain, procain v.v... tiêm tại chỗ hoặc phong bế .
Trước khi tác động đến các khu vực nhạy cảm như màng bụng, màng xương, hoặc khi co kéo mạnh các nội tạng nên phong bế trước các vùng đó.
Trong việc cho thuốc hỗ trợ, nói chung nên giữ sao cho bệnh nhân vẫn tỉnh để phối hợp được với kíp mổ.
5. Đơn huyệt dùng trong một số loại phẫu thuật thông thường
a) Mổ sọ não(Phẫu thuật trong, ngoài hộp sọ, ở các vùng đỉnh, trán, chấm)
Đơn huyệt:
Quyền liêu
Quyền liêu, túc lâm khấp, Hãm cốc, Thái xung.
Hợp cốc, Nội quan bên lành, Thần môn (loa tai) thêm một trong các vùng chẩm, trán, cổ (loa tai).
Mổ sọ não cần lưu ý:không nên dùng châm tê đối với một số trường hợp chấn thương sọ não nặng mà không yên tĩnh, nhất là tắc đường hô hấp, người bệnh có triệu chứng tâm thần, trẻ em (vì không hiệp đồng được) .
Cần chuẩn bị tốt hô hấp nhân tạo, cần có biện pháp phòng chống các cơn động kinh, khi rạch da đầu, khâu da đầu, cắt đứt dây thần kinh cảm giác, còn gây đau ở mức độ khác nhau, cũng như bị kích thích đến màng cứng nền sọ.thì làm đau đầu, buồn nôn, nôn.
b) Mổ vùng mắt:
Đơn huyệt:
Hợp cốc, Chi câu (bên mổ), Toản trúc, ngư yêu (bên lành)
Hợp cốc, Chi câu (bên mổ) Thần mông, Gan (loa tai bên lành)
Hợp cốc, Nội quan (bên mổ) huyệt lân cận vùng mổ (như Dương bạch, Ngư yêu, Tứ bạch, Thừa khấp).
Mổ mắt cần lưu ý:mổ mắt màng tiếp hợp còn nhạy cảm, cơ vòng mi giãn chưa tốt, có khi kéo cơ mắt vẫn còn đau, nên giỏ Dicain. Trong khi mổ tránh làm cơ quanh mắt, cơ mắt co duỗi do kích thích của xung điện (nên ngừng thông điện hoặc cho tần số cao). Có thuận lợi là giúp phẫu thuật tiến hành chính xác nhờ vị trí giải phẫu mắt rõ ràng, có mắt duy trì được chức năng bình thường, người bệnh có thể chủ động vận động nhãn cầu để phối hợp (ví dụ: trong mổ để điều chỉnh, song thị do cơ mắt ngoài co, mổ lác v.v...). Hậu phẫu ít phù nề, ít đau hơn.
c) Mổ vùng tai mũi họng
Đơn huyệt:
Hợp cốc, Thủ tam lý (một bên) nghênh hương (2 bên) .
Hợp cốc, nội quan (1 bên), thần môn xuyên Giao cảm, vùng mũi trong (loa tai bên kia).
Hợp cốc, Thủ tam lý (một bên) Liêm tuyền.
Hợp cốc, Chi câu (1 bên) vùng họng, Thần môn xuyên Giao cảm (Loa tai bên kia).
Hợp cốc, Nội quan (1 bên hoặc 2 bên)
Mổ vùng tai mũi họng lưu ý:
Vùng mổ thường chảy máu nhiều, có thể gãy tắc đường thở.
Cho thuốc tê tại chỗ, có khi không thấm vào tổ chức ở sâu (như Polyp ở sâu).
Mặt khác phản xạ họng bị ức chế, dãi tích lại ở họng có khi có nguy cơ bị hít vào khí quản, châm tê tránh được trở ngại này.
Sau khi mổ ứng châm tê ít đau, ít nề nhưng trong mổ còn đau, nhất là khi mổ sâu.
d) Mổ vùng rằng hàm mặt:
Mổ phần mềm ở mặt:đơn huyệt: Hợp cốc, Nội quan (bên mổ), phổi, má (loa bên tai kia).
Mổ vùng mặt răng:đơn huyệt: Hợp cốc, Nội quan, Công tôn, Thái khê, Tam âm giao (bên mổ hoặc cả hai bên).
Mố vùng răng hàm mặt nên lưu ý:mổ vùng ở đây dễ chảy máu. Trong khi mổ máu thấm ra nhiều dễ gây tắc đường hô hấp. Chưa làm hết đau hoàn toàn, nhất là khi tác động vào tủy răng.
đ)Mổ vùng cổ.
Cắt tuyến giáp trạngđơn huyệt: Phù đột hai bên, Hợp cốc, Nội quan (1 bên).
Hợp cốc, Nội quan (1 bên) Thần môn, Giao cảm (loa tai 1 bên). Hợp cốc, Nội quan (1 bên), Phù đột (2 bên).
Đối với bệnh nhân cường năng tuyến giáp trạng, cần làm cho chuyển hóa cơ bản, giảm xuống 30% và tăng liều tiền mê cho thích đáng rồi mới mổ.
Mổ vùng cổ nên lưu ý:châm tê trong lổ vùng cổ, nói chung phản ứng đau của bệnh nhân nhẹ, hiệu quả tốt hơn so với mổ các vùng khác của thân thể, rối loạn sinh lý cũng nhẹ, nhưng khi cắt lọc lớn, rộng, hậu quả không bình mổ cắt tuyến giáp trạng. Có thể gây khó thở cho bệnh nhân khi bóc tách và cắt bướu cổ.
e) Mổ vùng ngực:
Cắt u thành ngực - Cất xẹp sườn, cắt thùy phổi - cắt phổi:đơn huyệt, Hợp cốc, Nội quan, Tam dương lạc (bên mổ) Tam dương lạc xuyên khích môn (bên mổ).
Mổ tim:đơnhuyệtHợp cốc, Nội quan (bên mổ) Thần môn, Giao cảm, Tim (loa tai).
Mổ lồng ngực nên chú ý:
Mổ trong lồng ngực: yêu cầu chống đau phải thật tốt; khống chế các rối loạn sinh lý về tuần hoàn hô hấp do mở ngực.
Phổi: mổ châm tê: bệnh nhân còn đau ở mức độ khác nhau khi rạch màng xương và màng phổi Khi mổ ngực có thể gây thở nông, ngắn, tức ngực, thở gấp. Nếu chức năng phổi kém, hiệp đồng không tốt và hiệu quả châm tê kém thì do người bệnh không chủ động khống chế được các biến loạn sinh lý nói trên, nên dễ gây di động trung thất, làm cho phẫu thuật càng thêm khó. Nếu ở bệnh dính nhiều nên thay bằng phương pháp vô cảm khác.
g) Mổ vùng bụng:
Mổ dạ dày:đơn huyệt: Túc tam lý, Thượng cự hư (1 bên) Huyệt cạnh đường rạch (2 bên).
Mổ cắt ruột non:đơn huyệt: Túc tam lý, Công tôn, Hợp cốc, Nội quan, Thần môn (loa tai bên mổ)
Mổ cắt ruột thừa:đơn huyệt:
Túc tam lý, Tam âm giao, huyệt ruột thừa ở chân (bên mổ).
Túc tam lý, Tam âm giao, Lãi câu, Thần môn (loa tai).
Mổ khâu thoát vị bẹn:đơn huyệt: Túc tam lý, Lãi câu (bên mổ) Giao cảm, Gối xuyên bụng (loa tai)
Mổ cắt thông ống dẫn trứngđi đường bụng.đơn huyệt: Túc tam lý, Tam âm giao (2 bên) hoặc Túc tam lý, Trung đô (2 bên), thần môn, buồng trứng (loa tai).
Mổ lấy thai, mổ bụng dưới:đơn huyệt Túc tam lý, Tam âm giao, Đối mạch (2 bên), Thần môn xuyên giao cảm, Phổi (loa tai).
Túc tam lý, Lậu cốc (1 bên), huyệt cạnh đường rạch (2 bên).
Mổ cắt tử cung toàn phần và phần phụ: đơn huyệt: Túc tam lý, Tam âm giao (l bên) huyệt cạnh đường rạch (2 bên) Yêu du, Mệnh môn.
Mổ cắt nang buồng trứngđơn huyệt: Túc tam lý, Tam âm giao, Lậu cốc, Âm lăng tuyền
Mổ lấy sợi bàng quang, khâu bàng quang, tao lỗ dò.đơn huyệt: Tam âm giao (2 bên), Trung cực, Quan nguyên.
Túc tam lý, Tam âm giao (l bên), Bàng quang, Phổi, Thần môn (loa tai).
Mổ vùng bụng cần lưu ý.
Mổ vùng bụng có châm tê, rối loạn sinh lý nhẹ ít bị bí đái, liệt ruột sau mổ. Do chưa chống đau hoàn toàn, chưa khống chế phản ứng co kéo nội tạng và chưa làm mềm cơ vừa ý, nếu so với loại mổ châm tê khác, mổ bụng khó khăn hơn nhiều nhưng vẫn dùng châm tê vì có lợi cho người bệnh và cho hậu phẫu.
h) Mổ vùng đáy chậu
Thắt trĩ.đơn huyệt: Bạch hoàn du hai bên, Thân môn, Phổi, Đoạn dưới trực tràng (loa tai).
Rạch vùng đáy chậu:đơn huyệt: Tam âm giao, Thái xung (2 bên) huyệt cạnh đường rạch (2 bên).
Mổ vùng đáy chậu cần chú ý:
Mổ tại vùng này thường là loại mổ vừa và nhỏ nhưng vùng này lại nhạy cảm đối với kích thích và yêu cầu châm phải gây tê được nhiều, do đó tùy điều kiện cần thiết mà chỉ định cho thích hợp.
i) Mổ tứ chi:
Mổ tứ chi cần lưu ý.
Trong cấp cứu vết thương chiến tranh cũng như khi khắc phục di chứng của vết thương, các loại mổ tứ chi rất thường hay gặp, mổ châm tê tuy còn đau, nhất là khi rạch các vùng, sợ sẹo mà ngay dùng tiêm thuốc tại chỗ nhiều khi cũng ít kết quả, nhưng vì có lợi cho người bệnh nhiều nên vẫn nghiên cứu áp dụng châm tê.
Người bệnh tỉnh, có thể vận động theo yêu cầu của thấy thuốc, giúp thấy thuốc xác định gân, cơ bị thương, và kiểm tra tình hình mổ có lợi cho việc nâng cao chất lượng phẫu thuật điều trị và lợi ích của người bệnh.
Chống đau chưa hoàn toàn, có thể khắc phục bằng cách kết hợp thêm phong bế tại chỗ, còn với việc đặt "Gam" châm tê cần nghiên cứu giảm bớt cảm giác khó chịu đó cho người bệnh.
D - THAO TÁC NGOẠI KHOA KHI MỔ CHÂM TÊ
Mổ với bất kỳ phương pháp châm tê, mê nào, thao tác ngoại khoa đều phải chính xác, nhẹ nhàng, nhanh nhẹn để giảm bớt kích thích và tổn thương trong khi mổ.
Mổ châm tê, bệnh nhân tỉnh, chống đau chưa hoàn toàn, cơ còn căng khi co kéo, thăm dò nội tạng còn phản ứng nên yêu cầu đối với ngoại khoa càng cao. Không dùng kẹp có mấu để kẹp da, khi rạch phải dùng dao sắc. Khi bóc tách, phải kết sức nhẹ nhàng, khi thăm dò không nên đưa cả tay vào bụng và tránh co kéo nhiều nội tạng. Tùy tình hình cụ thể, nên linh hoạt thay đổi các bước thao tác, cải tiến cách thao tác để giảm bớt kích thích cho bệnh nhân.
Nói chung mổ châm tê đòi hỏi sự cố gắng chủ quan của ngoại khoa. Sự hiệp đông của ngoại khoa với kíp mổ và người bệnh ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công của cuộc mổ.
(Theo cimsi)