Sự lão hóa trong cơ thể người cao tuổi được ghi nhận với những thay đổi toàn bộ các tổ chức, cơ quan, bộ máy của cơ thể gồm hệ thần kinh, hệ tim mạch, hệ tiết niệu, hệ tiêu hóa, hệ hô hấp và hệ nội tiết.
Hệ thần kinh có chức năng chỉ huy, điều hòa mọi hoạt động của cơ thể. Về mặt giải phẫu, khối lượng não bộ giảm dần trong quá trình lão hóa, chúng chỉ còn khoảng 1.180g ở nam và 1.060g ở nữ lúc 85 tuổi so với trọng lượng 1.400g đến 1.260g lúc 20 - 25 tuổi. Về mặt sinh lý, biến đổi thường gặp nhất là giảm khả năng thụ cảm như: giảm thị thực, thính lực, khứu giác, vị giác, xúc giác; các cấu trúc tiếp nối thần kinh cũng giảm tính linh hoạt trong sự dẫn truyền xung động; hậu quả là phản xạ vô điều kiện tiến triển chậm hơn, yếu hơn; hoạt động của thần kinh cao cấp có những biến đổi trong các quá trình cơ bản, giảm ức chế rồi giảm hưng phấn; sự cân bằng giữa hai quá trình này kém đi dẫn đến rối loạn, hình thành phản xạ có điều kiện; thực tế thường gặp trạng thái cường giao cảm, rối loạn giấc ngủ với giấc ngủ không sâu, ban ngày dễ ngủ gà ngủ gật.
Về mặt tâm lý, nhiều người sống lâu, có sức khỏe bình thường, vẫn giữ được một phong thái hoạt động thần kinh cao cấp như lúc còn trẻ; khi sức khỏe không ổn định, tâm lý và tư duy thường có những biến đổi và mức độ của những biến đổi này tùy thuốc vào quá trình hoạt động cũ, thể trạng chung và thái độ của những người ở chung quanh; trong các biến đổi đó có hai đặc tính chung là sự giảm tốc độ và giảm tính linh hoạt; dễ có sự đậm nét hóa về tính tình cũ, giảm quan tâm đến những người chung quanh và tình hình thế sự, ít hướng về cái mới mà thường quay về với đời sống nội tâm; trí nhớ và kiến thức chung về nghiệp vụ vẫn khá tốt nhưng thường giảm sức ghi nhớ những việc mới xảy ra, những vấn đề trừu tượng.
Đối với tim, nếu không có bệnh lý gì đi kèm theo thì khi cao tuổi khối lượng nặng của cơ tim thường giảm, hệ tuần hoàn nuôi tim cũng giảm hiệu lực làm ảnh hưởng đến vấn đề dinh dưỡng của cơ tim. Sự biến đổi ở tim bên trái rõ hơn tim bên phải, nhịp tim thường chậm hơn lúc còn trẻ do tình trạng giảm tính linh hoạt của xoang tim. Lúc tuổi tăng cao đã có hiện tượng suy giảm tim tiềm tàng, giảm dẫn truyền trong tim, việc cung cấp khối lượng máu cho các cơ quan đặc biệt là cho tim và não bị giảm dần.
Đối với mạch máu, các động mạch nhỏ ngoại biên có đường kính hẹp lại làm giảm cung cấp khối lượng máu đến các mô tế bào, làm tăng sức cản, hậu quả là tim phải tăng sức bóp, tiêu hao nhiều năng lượng hơn và thường tăng khoảng 20% so với lúc còn trẻ. Tình trạng xơ cứng động mạch chủ cũng rất phổ biến. Tĩnh mạch giảm trương lực và độ đàn hồi, do đó dễ giãn ra. Tuần hoàn mao mạch giảm hiệu lực do mất một số mao mạch, đồng thời tính phản ứng của số còn lại cũng giảm.
Đến khoảng 70 - 80 tuổi, số nephron là đơn vị cấu tạo và chức năng cơ bản của thận còn hoạt động sẽ giảm khoảng 1/3 hoặc 1/2 so với lúc mới sinh
Đối với thành phần sinh hóa của máu, chúng thường có liên quan đến hệ tim mạch. Khi tuổi đã cao, nhóm bêta lipoprotein tăng, đồng thời nhóm alpha lipoprotein giảm. Hoạt tính của men lipase phân hủy lipoprotein giảm dần. Lượng lipide toàn phần, triglycerid, axít béo không este hóa, cholesterol trong máu đều tăng. Khi ăn mỡ, máu tăng đông, hệ thống tiêu fibrin không tăng theo, các tiểu cầu dễ kết dính vào nhau. Nếu có tình trạng tăng huyết áp thì các đặc điểm nêu trên lại càng biểu hiện rõ.
Đối với huyết áp, ở những người khỏe mạnh bình thường khi tuổi đã cao thì huyết áp động mạch có tăng theo nhưng không vượt quá giới hạn. Thường huyết áp tối đa tăng đến 29mmHg và huyết áp tối thiểu tăng đến 8,6mmHg so với lúc còn trẻ, tuy nhiên nếu huyết áp tối đa vượt quá 160mmHg và huyết áp tối thiểu vượt quá 95mmHg thì không còn là hiện tượng sinh lý bình thường nữa.
Thận là một trong những cơ quan chủ yếu bảo đảm sự thanh lọc các chất cặn bã khỏi cơ thể. Hoạt động của thận là cơ sở thực hiện nhiều chỉ tiêu ổn định môi trường bên trong của cơ thể.
Về phương diện hình thái học, thực tế những biểu hiện lão hóa xuất hiện sớm ở thận do bắt đầu từ tuổi 20 đã thấy những biến đổi ở các động mạch nhỏ và trung bình của thận. Từ 30 tuổi trở lên, lưới động mạch nhỏ ở vi cầu thận co rút lại, cuối cùng làm biến mất một số vi cầu thận và làm teo các ống thận có liên quan. Đến khoảng 70 - 80 tuổi, số nephron là đơn vị cấu tạo và chức năng cơ bản của thận còn hoạt động sẽ giảm khoảng 1/3 hoặc 1/2 so với lúc mới sinh. Những nephron mất đi được thay thế bằng mô liên kết, đó là hiện tượng xơ hóa thận của tuổi cao.
Về phương diện chức năng, mức lọc của vi cầu thận giảm dần. Ở người 95 tuổi, mức lọc của vi cầu thận chỉ bằng 59,7% so với lúc 20 tuổi. Sức cản của thận qua các mạch máu tăng dần theo tuổi như ở người 95 tuổi sẽ tăng gấp 3 lần so với lúc 20 tuổi. Hệ thanh thải urê cũng giảm theo tuổi như ở người 95 tuổi chỉ bằng gần 1/3 lúc 20 tuổi. Mặc dù có các mặt giảm thiểu nêu trên nhưng ở những người cao tuổi khỏe mạnh, không có hiện tượng tích lũy các chất đạm cặn bã trong máu nhờ đồng thời có sự giảm thiểu mức chuyển hóa trong cơ thể người cao tuổi, do đó có thể duy trì được tính ổn định của môi trường bên trong cơ thể. Tuy nhiên nếu có sự thay đổi đột xuất trong điều kiện sống, sự giảm thiểu hoạt động của thận dễ biến thành suy thận; đặc điểm này cần được lưu ý khi dùng thuốc điều trị có độc tính cao.
Đối với ống tiêu hóa, chủ yếu của sự biến đổi là giảm khối lượng, có hiện tượng thu teo nhưng ở mức độ nhẹ. Sự suy yếu các cơ thành bụng và các dây chằng dẫn đến trạng thái sa nội tạng. Đáng chú ý là sự giảm hoạt lực của các cơ cấu tiết dịch tiêu hóa, không những số lượng các dịch giảm mà hoạt tính của các men tiêu hóa cũng kém; thực tế có khoảng 1/3 số người cao tuổi có tình trạng không có axít chlorhydric trong dịch vị. Nhu động của dạ dày và ruột cũng giảm theo tuổi, khả năng tiêu hóa hấp thu ở ruột giảm. Trong điều kiện ăn uống bình thường phù hợp với lứa tuổi, sự giảm thiểu chức năng tiêu hóa có tính chất kín đáo và tiềm tàng; tuy nhiên khi phải chịu đựng một gánh nặng quá mức thì dễ dẫn đến sự rối loạn tiêu hóa, ảnh hưởng đến vấn đề dinh dưỡng.
Đối với gan, sự biến đổi được ghi nhận là giảm khối lượng, gan chỉ còn khoảng 930 - 980g lúc 75 tuổi so với 1.430g lúc 40 tuổi. Nhu mô gan có những chỗ teo lại, vỏ mô liên kết dày thêm, mật độ gan chắc hơn. Quá trình teo tế bào nhu mô gan đi đôi với quá trình thoái hóa mỡ. Trữ lượng các chất protid, kali, mức tiêu thụ oxy của tế bào gan đều giảm. Chức năng gan kém dần, nhất là việc chuyển hóa chất đạm, giảm độc, tái tạo. Hiện tượng giảm thiểu này chưa hẳn là tình trạng suy gan ở người bình thường; tuy vậy nếu có những tác nhân gây hại từ thuốc điều trị, thức ăn thì dễ có rối loạn chức năng do sự mất cân bằng ở tại gan.
Đối với túi mật và đường dẫn mật, cũng có sự biến đổi khi tuổi đã cao. Từ tuổi 40 đã ghi nhận tình trạng giảm độ đàn hồi của thành túi mật và ống dẫn mật, cơ túi mật đã bắt đầu teo lại, túi mật giãn ra. Do hiện tượng xơ hóa cơ vòng ống dẫn mật nên dễ có rối loạn điều hòa sự lưu thông của mật. Chính vì những biến đổi này nên bệnh lý ở túi mật và đường dẫn mật rất phổ biến ở người cao tuổi.
Sự lão hóa hệ hô hấp chủ yếu được ghi nhân ở hệ hô hấp ngoài với biến đổi về hình thái học và chức năng.
Về phương diện hình thái học, hình dạng của lồng ngực biến đổi do nhiều yếu tố tác động như: sụn sườn bị vôi hóa, khớp sườn - xương sống co cứng, đốt sống đĩa đệm thoái hóa, cơ lưng dài teo làm hạn chế cử động. Tế bào biểu mô hình trụ phế quản dày và bong ra, tế bào biểu mô tiết dịch loạn dưỡng, chất nhầy giảm lượng và cô đặc. Lớp dưới biểu mô xơ hóa. Mô xơ quanh phế quản phát triển làm ống phế quản không đều, có chỗ hẹp chỗ phình. Hoạt động lông rung giảm. Nhu mô phổi giảm mức đàn hồi, các phế nang cũng bị giãn ra.
Về phương diện chức năng, dung tích phổi giảm kể cả dung tích sống, dung tích bổ sung thở ra và thở vào, tổng dung tích. Tuy nhiên dung tích khí cặn giảm ít hơn là dung tích sống, tỉ lệ dung tích cặn trên dung tích sống tăng phản ánh sự giảm thiểu của dung tích có ích. Tỉ lệ thể tích khí thở ra trong 1 giây trên dung tích sống là thể tích khí tối đa đo được sau khi hít vào gắng sức và thở ra gắng sức (VEMS/CV) giảm từ 75% xuống còn 50 - 60%. Thông khí tối đa giảm rõ rệt ở người cao tuổi phản ánh dự trữ hô hấp giảm nên thường hay bị khó thở, có tình trạng thiếu không khí. Khả năng hấp thu khí oxy vào máu động mạch ở người cao tuổi cũng kém hơn ở người còn trẻ nên ảnh hưởng đến sự cung cấp khí oxy cho mô tế bào, do đó ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan và hệ thống. Tình trạng thiếu oxy huyết là đặc điểm quan trọng của cơ thể người cao tuổi cần được lưu ý.
Hoạt động của hệ nội tiết thường gắn liền với hoạt động của hệ thần kinh vì hoạt động nội tiết là một hoạt động thực hiện lệnh của thần kinh, đồng thời cũng có tác động ảnh hưởng trở lại đối với hệ thần kinh. Trong quá trình điều hòa mọi chức năng của cơ thể, thực tế có sự kết hợp chặt chẽ giữa thần kinh và nội tiết để hình thành một hệ thống điều hòa thần kinh nội tiết hoặc điều hòa thần kinh thể dịch. Biến đổi các tuyến nội tiết trong quá trình lão hóa là một sự biến đổi không đồng thì và đồng tốc; có nghĩa là không bị lão hóa cùng một lần với tốc độ như nhau. Bắt đầu sớm nhất là thoái triển tuyến ức, sau đó đến tuyến sinh dục rồi tuyến giáp trạng, cuối cùng là tuyến yên và tuyến thượng thận. Sự biến đổi này dễ nhận thấy nhất ở thời kỳ mãn sinh dục. Nếu thời kỳ này có sự tiến triển không bình thường thì rối loạn thần kinh nội tiết có thể có nhiều biểu hiện đa dạng, tạo điều kiện cho một số bệnh tật phát sinh và phát triển như tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, loãng xương...
Ngoài ra, những sự biến đổi trong chức năng của các tuyến nội tiết cũng sẽ làm thay đổi tính chất những phản ứng thích nghi của cơ thể đối với các stress, thông thường xảy ra theo hướng cường giao cảm. Khi các stress tái diễn nhiều lần gần nhau sẽ làm cho cơ thể người cao tuổi mau bị suy kiệt.
Lời khuyên của thầy thuốc
Người cao tuổi thường có những biến đổi toàn bộ cơ thể từ hệ thận kinh, hệ tim mạch, hệ tiết niệu, hệ hô hấp cho đến hệ nội tiết... do quá trình lão hóa. Cần hiểu rằng cao tuổi không phải là bệnh lý nhưng tuổi cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các loại bệnh tật phát sinh và phát triển từ những sự biến đổi này. Vì vậy, việc chữa trị và phòng bệnh phải căn cứ vào những đặc điểm biến đổi cơ thể của người cao tuổi, tình trạng bệnh lý của từng đối tượng để xử trí can thiệp điều trị phù hợp, không được xem giống như cơ thể của người đang còn trẻ.
Theo SKDS