Hiện tỉ lệ thai phụ mắc đái tháo đường khá cao và đây là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tình trạng thai chết lưu hoặc dị tật bẩm sinh ở trẻ. Vậy, tiểu đường thai kỳ sẽ gây ra những nguy cơ gì cho sản phụ và thai nhi và cần làm gì để hạn chế những tác hại của căn bệnh này?
Nhiều nguy cơ cho mẹ và con
Theo các nhà chuyên môn, những bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường trước khi có thai hoặc thai phụ bị tăng đường huyết được phát hiện lần đầu tiên trong lúc đang mang thai thì tình trạng tổn thương võng mạc có khuynh hướng nặng thêm và có thể gây xuất huyết võng mạc khi sinh. Ngoài ra, thai phụ bị đái tháo đường còn có nguy cơ bị nhiễm trùng tiểu hoặc có khả năng suy tim và nhồi máu tim cấp. Nếu thai phụ có sẵn bệnh thận mạn thì tình trạng suy thận sẽ gia tăng nếu bị tiểu đường thai kỳ.
Tần suất trẻ dị tật bẩm sinh được sinh ra từ những thai phụ có đường huyết cao trong giai đoạn tạo cơ quan của phôi thai (5 - 8 tuần sau kỳ kinh cuối) cao gấp 8 lần bình thường; dị tật tim mạch cao gấp 18 lần và dị tật hệ thần kinh cao gấp 16 lần. Ngay cả trong các trường hợp đái tháo đường xuất hiện muộn trong thai kỳ, nguy cơ của thai nhi như sang chấn lúc sinh hay suy hô hấp... cũng cao hơn nhiều lần so với bình thường. Thai nhi có đường huyết cao dễ bị sinh non, dị tật, thai to hoặc chậm tăng trưởng trong tử cung so với tuổi thai bình thường, thai chết lưu... Các trường hợp đái tháo đường trong thai kỳ không điều trị ổn định sẽ có tần suất thai nhi chết lưu hay chết ngay sau sinh cao gấp 2-4 lần các thai phụ bình thường. Hoặc em bé sẽ gặp những rối loạn chuyển hóa lúc sơ sinh như đa hồng cầu, vàng da kéo dài, hạ can xi máu, hạ đường huyết sơ sinh. Con của thai phụ tiểu đường, không được điều trị tốt thường rất nặng cân nhưng lại dễ bị suy hô hấp, chấn thương trong cuộc sinh, dễ bị nhiễm trùng và mắc các bệnh lý.
Cần theo dõi đường huyết chặt chẽ
Hiện có nhiều thai phụ chưa được theo dõi đường huyết chặt chẽ, đặc biệt là những thai phụ chỉ khám thai định kỳ ở các phòng khám tư. Trong khi đó, việc kiểm soát và theo dõi đường huyết, chế độ dinh dưỡng và cân nặng ở thai phụ là rất quan trọng. Thường các tai biến chỉ xảy ra nếu đường huyết của thai phụ không được ổn định hoặc bệnh nhân đã có các biến chứng trước khi có thai. Các biến chứng của bệnh đái tháo đường ở thai phụ có thể giảm hoặc không xuất hiện nếu thai phụ được theo dõi đường huyết chặt chẽ. Do đó, những trường hợp đái tháo đường thai kỳ cần được phối hợp chăm sóc toàn diện bởi bác sĩ đa khoa, bác sĩ chuyên khoa đái tháo đường, bác sĩ sản phụ khoa và cả bác sĩ chuyên khoa bệnh lý sơ sinh.
Thai phụ nên kiểm soát đường huyết toàn phần lúc đói dưới 95mg/dL và đường huyết toàn phần 1 giờ sau bữa ăn dưới 140mg/dL và 2 giờ sau ăn dưới 120mg/dL. Tuy nhiên, không nên quá lo lắng mà để đường huyết lúc đói thấp hơn 60 mg/dL. Nếu có điều kiện, bệnh nhân nên có một máy tự theo dõi đường huyết tại nhà và liên hệ với bác sĩ khi có những thay đổi bất thường ở đường huyết. Thai phụ mắc chứng đái tháo đường có thể theo dõi đường huyết vào lúc đói, sau khi ăn từ 1- 2 giờ và một lần vào buổi tối trước khi đi ngủ.
Cùng với điều trị ổn định đường huyết, tình trạng phát triển của thai nhi cần được theo dõi chặt chẽ qua siêu âm định kỳ hay các thử nghiệm đánh giá sức khỏe thai, đặc biệt trong những tuần lễ cuối. Ngoài ra, thai phụ cần quan tâm tới cân nặng, huyết áp, tình trạng phù, tiền sản giật hoặc sản giật để ngăn ngừa các trường hợp thai chết lưu, suy hô hấp hoặc thai to phải đưa đến các tình huống mổ lấy thai hoặc trật khớp vai thai nhi nếu sinh qua đường âm đạo. Nếu thai phụ có nguy cơ đái tháo đường cao, phải theo dõi tim thai từ tuần thai thứ 27, từ 1-3 lần/tuần, so với thai phụ có nguy cơ thấp thì từ tuần thai thứ 36 trở đi mới theo dõi tim thai mỗi tuần.
Theo SKDS