Chúng ta vẫn quan niệm rằng, mùa đông tiết trời lạnh, trẻ dễ bị viêm đường hô hấp và viêm phổi. Còn mùa hè bệnh này sẽ ít gặp hơn. Thực ra mùa hè thời tiết nóng ẩm, là điều kiện rất tốt cho vi khuẩn sinh sôi và truyền bệnh. Thêm nữa, mùa hè khi trẻ hoạt động, mồ hôi ra nhiều, nếu không kịp thời thay quần áo, mồ hôi sẽ ngấm ngược, dễ gây viêm đường hô hấp và viêm phổi.
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là bệnh thường gặp nhất ở trẻ em, nhất là ở trẻ em dưới 5 tuổi. Người ta ước tính mỗi năm một em bé dưới 5 tuổi có thể mắc phải từ 3 - 8 lần nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Phần lớn trường hợp nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính sẽ tự khỏi trong vòng 1 tuần khi được chăm sóc đúng cách. Nhưng cũng có đến 1/3 trường hợp, bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính sẽ diễn tiến thành viêm phổi.
Bệnh viêm phổi ở trẻ nhỏ, nếu không phát hiện và điều trị kịp thời, sẽ rất nguy hiểm cho tính mạng, thậm chí gây tử vong, vì thế, việc phát hiện sớm trẻ bị viêm phổi là rất quan trọng. Không khó để phát hiện trẻ bị viêm đường hô hấp cấp, viêm phổi, vì các dấu hiệu rất điển hình.
Dấu hiệu đầu tiên và sớm nhất đó là trẻ thở nhanh hơn bình thường. Khi trẻ bị viêm phổi, phổi của trẻ sẽ mất tính mềm mại và không thể giãn nở dễ dàng khi trẻ hít thở mà hậu quả là trẻ có thể bị thiếu ôxy. Vì vậy, trẻ buộc phải thở nhanh hơn dể bù đắp lại sự thiếu hụt này.
Thế nào là thở nhanh? Chúng ta có thể kiểm tra bằng phương pháp rất đơn giản: đếm nhịp thở của trẻ trong trọn 1 phút để xem trẻ có thở nhanh hay không. Gọi là thở nhanh khi: nhịp thở từ 60 lần/phút trở lên ở trẻ dưới 2 tháng. Từ 50 lần/phút trở lên ở trẻ từ 2 - 11 tháng. Từ 40 lần/phút trở lên ở trẻ từ 12 tháng đến 5 tuổi.
Vì nhịp thở có thể tăng khi trẻ gắng sức (bú, quấy khóc...) nên chúng ta cần phải đếm nhịp thở khi trẻ nằm im, tốt nhất khi ngủ.
Ngoài thở nhanh, những trẻ bị viêm phổi nặng, trẻ nhỏ bị viêm phổi khi thở còn bị co lõm lồng ngực. Trường hợp này chứng tỏ bệnh viêm phổi đã nặng, cần nhập viện ngay để điều trị.
Đặc biệt, nếu trẻ có các dấu hiệu sau đây thì bắt buộc phải đưa trẻ đi cấp cứu càng sớm càng tốt, nếu không tính mạng trẻ sẽ bị đe dọa nghiêm trọng:
Trẻ dưới 2 tháng: bỏ bú hoặc bú kém, co giật hoặc trẻ ngủ li bì, khó đánh thức trẻ dậy, sốt hoặc lạnh, thở khò khè.
Trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi: trẻ không thể uống được gì cả, co giật hay ngủ li bì, khó đánh thức, thở có tiếng rít, suy dinh dưỡng nặng.
Bệnh viêm phổi, nếu nhẹ có thể điều trị cho trẻ tại nhà. Nhưng khi đó, cần hết sức chú ý tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ điều trị. Đặc biệt, phụ huynh cần tuân thủ tốt những yêu cầu sau:
Cho trẻ uống kháng sinh thích hợp: Đây là điều quan trọng nhất để trẻ có thể khỏi bệnh. Trẻ cần phải được uống kháng sinh thích hợp, đúng cách, đủ liều và đủ thời gian. Khi được thầy thuốc chỉ định, các bậc phụ huynh cần nhận biết đúng dạng thuốc cho trẻ uống, liều lượng mỗi lần uống, số lần uống trong ngày và số ngày cần cho trẻ uống thuốc.
Đối với các loại thuốc viên, cần tán nhỏ viên thuốc trước khi cho trẻ uống (có thể cho vào một ít nước và chờ vài phút, nước sẽ làm viên thuốc bở ra và dễ nghiền nhỏ hơn). Có thể pha thêm một ít đường, hoặc pha với một ít sữa, nước cháo để bé có thể uống dễ dàng hơn. Nếu trẻ ói trong vòng 30 phút sau khi uống thuốc, cần cho bé uống lại một liều khác.
Điều trị các triệu chứng kèm theo (sốt, khò khè): Tùy trường hợp mà thầy thuốc sẽ cho trẻ các loại thuốc cần thiết khác như thuốc hạ sốt (paracetamol), thuốc điều trị khò khè (salbutamol, trebutaline). Cần cho trẻ uống đúng theo hướng dẫn dù rằng các loại thuốc này cũng khá an toàn cho trẻ em.
Biết cách chăm sóc trẻ tại nhà.
- Cần phải tăng cường cho trẻ ăn, bú, tránh các tập quán kiêng ăn. Cần cho trẻ ăn đủ chất, bú đều đặn khi đang bệnh. Khi trẻ vừa khỏi bệnh cũng cần bồi dưỡng thêm cho trẻ mau lại sức. Đối với trẻ nhỏ, khi mũi bị nghẹt, tắc, trẻ sẽ khó bú, khó ăn hơn. Vì vậy cần làm thông thoáng mũi cho trẻ để trẻ có thể bú, ăn dễ dàng hơn.
- Cần cho trẻ uống nhiều nước hoặc tăng cường cho trẻ bú. Đây là điều rất quan trọng vì trẻ bị viêm phổi cần được cung cấp nhiều nước để làm loãng đờm, dịu họng, giảm ho.
- Riêng đối với vấn đề ho, chúng ta cần lưu ý: khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, ho chính là một phản xạ có lợi để tống đờm dãi ra ngoài, giúp đường thở được thông thoáng để trẻ có thể hít thở dễ dàng. Vì vậy không nên lạm dụng các loại thuốc ho để kìm hãm phản xạ có lợi này của trẻ nhất là khi hiện nay có nhiều loại thuốc ho có thể gây ngộ độc, tác dụng phụ quan trọng ở trẻ em nếu dùng không đúng cách.
Trên thực tế nếu dùng đúng loại kháng sinh thích hợp để trị viêm phổi cũng sẽ giúp trẻ giảm ho nhanh chóng. Chỉ khi nào trẻ ho nhiều dẫn đến những hậu quả xấu cho trẻ như nôn ói, mất ngủ, đau tức ngực, đau rát họng... chúng ta có thể cho trẻ dùng các thuốc ho an toàn (nên hỏi ý kiến bác sĩ).
Biết được khi nào cần đưa trẻ đến khám lại: bao gồm tái khám theo hẹn và khám lại ngay lập tức khi trẻ trở nặng.
- Tái khám theo hẹn: trẻ cần được bác sĩ khám lại sau 2 ngày để đánh giá xem thuốc kháng sinh trẻ dùng có hiệu quả tốt hay không. Ngay trong trường hợp tốt nhất (trẻ thở trở lại bình thường, hết sốt, ăn, bú khá hơn) trẻ cũng cần phải tiếp tục cho uống kháng sinh đủ thời gian là 5 ngày. Nếu sau 2 ngày tái khám mà trẻ còn thở nhanh, thầy thuốc sẽ cho trẻ dùng một loại kháng sinh cần thiết khác hoặc cho cháu nhập viện điều trị.
- Khám lại ngay: cũng cần lưu ý theo dõi và đưa ngay trẻ đến cơ sở y tế hoặc bệnh viện nếu thấy trẻ có một trong các dấu hiệu sau: thở khó khăn (thở nhanh hơn, mạnh hơn, thở co lõm lồng ngực), trẻ không bú được, không thể uống được nước, trẻ trở nên mệt hơn. Đây là những dấu hiệu cho biết bệnh của trẻ đã trở nặng, cần nhập viện ngay.
Theo SKDS