Các cephalosporin được sử dụng rộng rãi và là thuốc kháng sinh điều trị quan trọng. Đã có những kháng sinh thế hệ 4 thuộc nhóm này. Nhưng không vì thế mà các kháng sinh thế hệ 1, 2, 3 không được tin dùng. Vậy sử dụng kháng sinh các thế hệ của cephalosporin như thế nào cho hiệu quả?
Sự ra đời của penicillin là bước ngoặt lớn trong điều trị các nhiễm khuẩn của y học toàn thế giới. Cùng với thời gian, các vi khuẩn ngày càng tỏ ra “cứng đầu cứng cổ” và chống lại mạnh mẽ penicillin. Để chống lại các vi khuẩn ngày càng kháng thuốc penicillin, các nhà khoa học đã thay đổi một phần cấu tạo hóa học của penicillin để sản xuất ampixillin, amoxicillin là các penicillin bán tổng hợp đang được dùng rộng rãi. Thế nhưng, việc sử dụng kháng sinh tràn lan như hiện nay khiến ngày càng có nhiều vi khuẩn cũng đã kháng lại cả ampixillin, amoxicillin làm giảm công hiệu điều trị của thuốc. Trước thực trạng nhiều loại vi khuẩn kháng thuốc, việc phát hiện ra dòng kháng sinh cephalosporin đã mở ra một đường hướng tích cực cho ngành kháng sinh học. Cephalosporin là nhóm kháng sinh bán tổng hợp có cấu trúc hóa học gần giống các penicillin, nhưng có hoạt tính kháng sinh cao hơn, rộng hơn. Sự phát triển mạnh mẽ của các cephalosporin trong thập kỷ qua rất đáng được ghi nhận và tạo ra một nhóm thuốc rất được quan tâm. Dựa vào tính chất hóa học, vi sinh học và trình tự phát triển, các cephalosporin được chia thành nhiều thế hệ. Việc dùng các thuốc này trong điều trị thế nào là điều mà mọi người cùng quan tâm.
Sử dụng cephalosporin như thế nào?
Cephalosporin thế hệ đầu tiên có khả năng diệt khuẩn tuyệt vời cho các nhiễm khuẩn da và mô mềm do S. aureus và S. Pyogenes gây ra. Trong một số trường hợp, sử dụng một liều duy nhất của cefazolin trước khi phẫu thuật là điều trị dự phòng tránh các tác nhân gây hại trong hệ thực vật da. Đối với phẫu thuật đại trực tràng, điều trị dự phòng cho các vi khuẩn yếm khí đường ruột thường được chỉ định sử dụng. Ngoài ra, cefadroxil có thể được dùng đường uống 1 lần hoặc 2 lần/ngày để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn đường tiết niệu.
Cephalosporin thế hệ thứ hai có thể được sử dụng để điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp, chúng tốt nhất (so với amoxicillin uống) khi điều trị viêm phổi do S. pneumoniae kháng penicillin và viêm tai giữa. Cefoxitin và cefotetan có hiệu quả trong điều trị nhiễm khuẩn: ổ bụng, bệnh viêm vùng chậu, nhiễm khuẩn bàn chân tiểu đường. Tuy nhiên, không nên sử dụng cephalosporin thế hệ thứ hai để điều trị theo kinh nghiệm của bệnh viêm màng não hoặc viêm phổi.
Cephalosporin thế hệ thứ ba: Ceftriaxon là liệu pháp lựa chọn của bệnh lậu và các dạng nghiêm trọng của bệnh nhiễm khuẩn do ve gây ra. Cefotaxime hoặc ceftriaxon được sử dụng cho điều trị ban đầu của bệnh viêm màng não ở người lớn không suy giảm miễn dịch và trẻ em hơn 3 tháng tuổi do thuốc thâm nhập tốt vào dịch não tủy và là những thuốc được lựa chọn cho điều trị bệnh viêm màng não gây ra bởi H. influenzae, N. meningitidis và các vi khuẩn gram âm đường ruột. Ceftazidim (có aminoglycoside) là lựa chọn điều trị cho bệnh viêm màng não Pseudomonas. Cefditoren pivoxil chỉ được chỉ định để điều trị nhẹ đến trung bình viêm họng, viêm amidan, nhiễm khuẩn da không biến chứng cấu trúc da và các đợt cấp tính của viêm phế quản mạn tính. Ceftibuten chỉ được chỉ định cho các đợt cấp tính do vi khuẩn của viêm phế quản mãn, viêm tai giữa cấp tính do vi khuẩn, viêm họng và viêm amiđan...
Cephalosporin thế hệ thứ tư được chỉ định để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn bệnh viện do vi khuẩn kháng thuốc.
Và những tác dụng không mong muốn
Phản ứng quá mẫn đối với các cephalosporin là phản ứng không mong muốn thường gặp nhất và không có chứng cứ nào cho thấy cephalosporin này lại gây mẫn cảm ít hoặc nhiều hơn so với cephalosporin khác. Các phản ứng xảy ra giống như phản ứng do penicillin, điều này có thể liên quan đến cấu trúc beta lactam của cả hai nhóm kháng sinh này. Phản ứng tức thời như phản vệ, co thắt phế quản, mày đay. Thường gặp hơn là phát ban, thường xảy ra sau vài ngày điều trị. Có thể kèm hoặc không kèm sốt, tăng bạch cầu ái toan. Một vài trường hợp có thể bị tiêu chảy.
Do cấu trúc tương tự giữa penicillin và cephalosporin, người bệnh đã bị dị ứng với một loại nhóm thuốc này có thể bị phản ứng chéo với một loại trong nhóm thuốc kia khi dùng. Người bệnh có tiền sử dị ứng nhẹ hoặc phản ứng từ đã lâu với penicillin thì ít có nguy cơ phát ban hoặc phản ứng dị ứng khác đối với cephalosporin. Tuy nhiên, người bệnh có phản ứng gần đây nặng và tức thời với penicillin thì khi dùng cephalosporin phải hết sức thận trọng hoặc không nên dùng.
Cephalosporin được coi là có tiềm năng độc với thận mặc dù không độc như aminoglycosid hoặc polymyxin. Hoại tử ống thận đã xảy ra khi dùng cephaloridin với liều trên 4 gam mỗi ngày. Dùng liều cao cefalotin có thể gây hoại tử ống thận cấp trong một số trường hợp.
Mỗi loại thuốc của nhóm cephalosporin đều có liều dùng và những lưu ý khác nhau khi dùng thuốc. Người bệnh cần tuân thủ chặt chẽ chỉ định của thầy thuốc, không tự ý dùng thuốc hoặc dùng không đủ liều... Làm như vậy sẽ góp phần làm cho vi khuẩn kháng thuốc, giảm hiệu quả điều trị, tăng tai biến khi dùng thuốc...
Theo SKDS