Người ta thấy các kiểu hóa trị ung thư khác nhau rõ ràng đã làm tăng nguy cơ bệnh bạch cầu ở những bệnh nhân còn sống hơn một năm sau khi được chẩn đoán.
Các thuốc chống ung thư quan trọng khác như adriamycin và cisplatin cũng có tính sinh ung thư ở động vật thực nghiệm nhưng cho đến nay vẫn không thấy có tính sinh ung thư ở người. Mặc dù nguy cơ bệnh bạch cầu tăng cao sau khi điều trị một số ung thư chọn lọc nhưng người ta vẫn so sánh điều này với thuận lợi điều trị hóa chất các bệnh như bệnh bạch cầu lympho ở trẻ em, bệnh Hodgkin và ung thư tinh hoàn loại tế bào mầm.
Tuy nhiên, quan trọng là sự quan tâm nguy cơ mắc bệnh ác tính thứ hai khi đánh giá trong một thời gian dài các phác đồ hóa trị ung thư và tìm kiếm các cách điều trị xen kẽ làm giảm mối nguy cơ này.
Vấn đề áp dụng đặc biệt cho các bệnh như là Hodgkin vì loại bệnh này có tiên lượng rất tốt với cách điều trị hiện nay.
Các ung thư phụ khác được báo cáo ở những bệnh nhân sống sót lâu dài sau hóa trị ung thư như lympho không Hodgkin sau bệnh Hodgkin và ung thư phổi và bàng quang sau điều trị bằng cyclophosphamide bệnh lympho không Hodgkin.
Các loại thuốc khác gây ung thư ở các bệnh nhân được điều trị là các hỗn hợp giảm đau chứa phenacetin, chúng làm tăng nguy cơ ung thư thận và ung thư biểu mô đường niệu khác; thuốc ức chế miễn dịch azaathioprien gây các u da, lympho không Hodgkin và các bệnh ác tính hiếm gặp khác; và sự phối hợp 8 - methoxypsoralen và tia cực tím loại A có thể gây ung thư da sau khi dùng để điều trị các rối loại ở da như bệnh vảy nến.
Sự ức chế miễn dịch sau khi cấy ghép cơ quan cũng làm bệnh nhân có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư. Tuy nhiên, vai trò sinh ung của các thuốc dùng để làm ức chế miễn dịch vẫn còn đang bàn cãi.
Một số loại nội tiết tố được dùng trong các lĩnh vực thực hành y khoa khác nhau, cho thấy một số nhóm nội tiết tố làm tăng nguy cơ ung thư sau khi dùng chúng. Người ta xác định rằng, thuốc diethylstisllbestrol (DES) mà đã từng được dùng rộng rãi vào đầu thai kỳ để giảm cơn buồn nôn và ngừa dọa sẩy thai, thì có thể gây ung thư âm đạo ở các con gái của bệnh nhân được điều trị và làm tăng nguy cơ bị ung thư tinh hoàn cho các con trai của họ.
Điều trị thay thế estrogen dùng để giảm các triệu chứng mãn kinh, để giảm nguy cơ bệnh tim do mạch vành bằng cách làm tăng lipoprotein cholesterol tỷ trọng cao và để bảo tồn nồng độ muối khoáng trong xương ngừa chứng loãng xương và gãy xương. Liệu pháp này làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung cũng như khi sử dụng thuốc ngừa thai uống thường xuyên. Mặt khác, các thuốc ngừa thai uống loại phối hợp có lẽ liên quan với nguy cơ thấp bị ung thư nội mạc tử cung và buồng trứng nhưng có thể gây tăng nhẹ nguy cơ bị các u gan lành và ác tính. Việc sử dụng thuốc ngừa thai uống có gây ung thư vú hay không vẫn còn đang bàn cãi, mặc dù có vẻ nguy cơ ung thư vú tăng cao ở các phụ nữ trẻ và các phụ nữ sớm sử dụng thuốc ngừa thai đường uống loại phối hợp trong đời sống sinh dục của họ.
Theo SKDS