Thuốc adefovir dùng điều trị viêm gan B mạn tính ở người lớn khi có bằng chứng về sự nhân lên của virut hoạt động và có mô bệnh học tiến triển.
Ai nên và không nên dùng adefovir?
Thuốc adefovir được dùng điều trị viêm gan B mạn tính ở người lớn dựa trên những đáp ứng về mô học, virut học, sinh hóa và huyết thanh với chức năng gan còn bù. Tuy nhiên, thuốc không được dùng cho người quá mẫn với adefovir hoặc với bất kỳ thành phần nào của thuốc.
Cần theo dõi chặt chẽ khi dùng thuốc adefovir điều trị bệnh viêm gan B mạn tính ở người lớn.
Tác dụng phụ của adefovir bao gồm: buồn nôn, đầy hơi, tiêu chảy, khó tiêu và đau bụng; đau đầu và suy nhược; ngứa, phát ban da; các tác động trên hệ hô hấp bao gồm ho nhiều hơn, viêm họng và viêm xoang; tăng nồng độ creatinin trong huyết thanh, tổn thương thận, suy thận cấp và tăng nồng độ men gan... Vì vậy, những người dùng thuốc mà gặp một hay nhiều tác dụng phụ này cũng phải ngưng dùng thuốc và thông báo cho bác sĩ biết để xử lý kịp thời.
Ngoài ra, chúng ta còn lưu ý những thận trọng khi sử dụng thuốc adefovir.
Thận trọng khi sử dụng adefovir
Ngưng sử dụng adefovir để điều trị viêm gan B mạn tính nếu có sự tăng nhanh nồng độ men aminotransferase; gan bị to tiến triển hoặc gan nhiễm mỡ, hay bị nhiễm toan chuyển hóa hoặc nhiễm toan lactic không rõ nguyên nhân.
Cần thận trọng khi sử dụng adefovir cho bệnh nhân bị gan to hoặc có các yếu tố nguy cơ bị bệnh gan khác.
Cần phân biệt cẩn thận giữa bệnh nhân có nồng độ men gan tăng do đáp ứng với điều trị và do độc tính của thuốc.
Bệnh viêm gan sẽ nặng thêm sau khi ngưng điều trị bằng adefovir, khi đó được giải quyết bằng cách bắt đầu điều trị lại. Tuy nhiên vẫn có trường hợp bệnh nghiêm trọng kể cả tử vong. Bệnh nhân bị bệnh gan tiến triển hoặc xơ gan có nguy cơ mất bù gan cao hơn bệnh nhân có chức năng gan còn bù.
Cần theo dõi chức năng gan chặt chẽ định kỳ trong một thời gian sau khi ngưng dùng adefovir (thường là 12 tuần).
Bệnh nhân dùng adefovir nên được kiểm tra các dấu hiệu của sự suy giảm chức năng thận mỗi 3 tháng. Cần chăm sóc đặc biệt những bệnh nhân có hệ số thanh thải creatinin dưới 50ml/phút (cần phải điều chỉnh liều) và những người đang dùng các thuốc khác có thể ảnh hưởng chức năng thận.
Đề kháng với HIV: khi dùng adefovir để điều trị nhiễm HBV mạn tính cho bệnh nhân bị nhiễm HIV chưa được phát hiện hoặc chưa được điều trị có thể dẫn đến sự đề kháng với HIV. Nên kiểm tra kháng thể HIV cho mọi bệnh nhân trước khi bắt đầu điều trị với adefovir.
Trẻ em và thanh thiếu niên: tính an toàn và hiệu quả của adefovir ở bệnh nhân dưới 18 tuổi chưa được xác định. Vì vậy không nên dùng adefovir cho trẻ em và thanh thiếu niên.
Người già: đến nay chưa có tài liệu về liều khuyên dùng cho bệnh nhân trên 65 tuổi.
Phụ nữ có thai: chưa có những nghiên cứu đầy đủ và được kiểm soát chặt chẽ ở phụ nữ có thai. Chỉ nên dùng adefovir trong thai kỳ khi thật sự cần thiết và sau khi đã cân nhắc cẩn thận giữa nguy cơ và lợi ích. Chưa có nghiên cứu ở phụ nữ có thai và các dữ liệu về tác động của adefovir trên sự truyền HBV từ mẹ sang con. Vì thế, cần tiêm phòng thích hợp cho trẻ nhằm ngăn ngừa sự nhiễm virut viêm gan B lúc mới sinh.
Phụ nữ cho con bú: hiện nay vẫn chưa biết adefovir có được tiết vào sữa mẹ hay không nên người mẹ cần được hướng dẫn là không được cho con bú khi đang dùng adefovir.
Adefovir được sử dụng bằng đường uống. Cần giảm liều adefovir ở bệnh nhân suy thận. Nên thay đổi khoảng cách giữa các liều tùy theo hệ số thanh thải creatinin của bệnh nhân. Đối với bệnh nhân suy gan: không cần điều chỉnh liều cho bệnh nhân suy gan.
Xử lý khi dùng quá liều
Nếu bệnh nhân dùng liều adefovir 500mg/ngày trong 2 tuần hoặc 250mg/ngày trong 12 tuần sẽ gây ra các rối loạn tiêu hóa kể trên và chứng biếng ăn. Khi đó cần: theo dõi dấu hiệu nhiễm độc và áp dụng các biện pháp điều trị hỗ trợ chuẩn. Có thể loại trừ adefovir bằng thẩm phân máu.
Theo SKDS